Quyết định 123-HĐBT năm 1987 sửa đổi chế độ, chính sách đối với Cán bộ y tế xã, phường, thị trấn do Hội đồng Bộ trưởng ban hành

Số hiệu 123-HĐBT
Ngày ban hành 19/08/1987
Ngày có hiệu lực 01/09/1987
Loại văn bản Quyết định
Cơ quan ban hành Hội đồng Bộ trưởng
Người ký Võ Văn Kiệt
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Bộ máy hành chính,Thể thao - Y tế

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 123-HĐBT

Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 1987

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC SỬA ĐỔI CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ Y TẾ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG

Để bảo đảm sự hoạt động của cán bộ Y tế chăm sóc sức khoẻ của Nhân dân ở xã, phường, thị trấn;
Theo đề nghị của Bộ Y tế và ý kiến của Bộ tài chính, Ban tổ chức của Chính phủ,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Mỗi trạm Y tế xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã) được bố trí ít nhất là 3 cán bộ Y tế. Những xã có trên 3.000 dân thì cứ thêm 1.000 dân được bố trí thêm 1 cán bộ Y tế, nhưng tổng số không quá 7 người. Những xã lớn trên 10.000 dân được bố trí 8 người trở lên, nhưng nhiều nhất cũng không quá 10 người.

Điều 2. Các cán bộ Y tế xã đã được tuyển vào biên chế Nhà nước, được giữ nguyên trong biên chế Nhà nước.

Các cán bộ Y tế xã có bằng cấp, được đào tạo chuyên môn theo chương trình thống nhất của Nhà nước, nhưng chưa tuyển vào biên chế Nhà nước nay được hưởng sinh hoạt phí theo bảng lương cán bộ Y tế Nhà nước có cùng trình độ chuyên môn và thâm niên công tác, được hưởng chế độ phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ và được mua lương thực, hàng hoá như quy định tại các Quyết định số 156-CP ngày 7-10-1968 của Hội đồng Chính phủ và số 111-HĐBT ngày 13-10-1981 của Hội đồng Bộ trưởng; được hưởng các chế độ ưu đãi ngành, phụ cấp trách nhiệm, lây nhiễm, độc hại, phụ cấp đi học, các chế độ bảo hiểm xã hội như nghỉ hưu, mất sức, thôi việc, phụ cấp khi ốm đau, sinh đẻ, chết, trợ cấp khó khăn như đối với cán bộ Y tế Nhà nước.

Điều 3. Nguồn kinh phí trả sinh hoạt phí và các phụ cấp khác cho cán bộ Y tế xã giải quyết theo phương châm Nhà nước và Nhân dân cùng làm, Trung ương và địa phương cùng làm. Cụ thể là:

Ngân sách Nhà nước (tỉnh, huyện) trả sinh hoạt phí và các phụ cấp khác cho cán bộ Y tế xã và cán bộ Y tế bản, buôn, làng, các xã vùng cao miền núi, xã miền núi mà kinh tế còn nhiều khó khăn, xã đồng bào dân tộc Tây nguyên, biên giới, hải đảo xa, xã kinh tế mới trong 3 năm đầu. Mức phụ cấp cho cán bộ Y tế các bản, buôn, làng bằng 1/2 mức sinh hoạt phí cán bộ Y tế xã có cùng trình độ chuyên môn. Mỗi bản, buôn, làng chỉ bố trí một cán bộ Y tế.

Ngân sách xã trả sinh hoạt phí và các phụ cấp khác cho cán bộ Y tế các xã miền núi còn lại, các xã vùng trung du, đồng bằng. Đối với những xã ở các vùng này mà kinh tế còn nhiều khó khăn do sản xuất thấp, hoặc khi gặp thiên tai, địch hoạ, ngân sách xã không đủ chi cho sự nghiệp Y tế thì ngân sách Nhà nước (quận, huyện, tỉnh, thành phố, đặc khu) trợ cấp.

Tuỳ theo tình hình cụ thể từng nơi, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu có thể cho phép xây dựng "quỹ sự nghiệp Y tế" xã, phường, thị trấn, dựa vào các nguồn đóng góp của nhân dân, đóng góp của các tổ chức kinh tế tập thể, tiền hoả hồng bán tân được, tiền lãi do chế biến, sản xuất thuốc nam, tiền thu một số khoản dịch vụ Y tế... do Bộ Y tế và Bộ tài chính hướng dẫn cụ thể. Quỹ này do Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý và chi tiêu riêng cho sự nghiệp Y tế.

Các cán bộ Y tế ở thôn, ấp, bản, buôn, làng (trừ số đã được ngân sách huyện, tỉnh đài thọ) được hưởng công điểm thời gian làm công tác Y tế như xã viên lao động khá trong hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Những nơi không có hợp tác xã, tập đoàn sản xuất hay một tổ chức kinh tế tập thể nào, thì nhân dân địa phương đóng góp đài thọ tương đương với ngày công lao động khá ở đó, theo chế độ công tác của cán bộ Y tế bán chuyên trách làm việc 1/2 ngày.

Điều 4. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 1987, các văn bản trước đây trái với Quyết định này đều bãi bỏ.

Bộ Y tế, Bộ tài chính, các Bộ, các ngành có liên quan và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

 

 

Võ Văn Kiệt

(Đã ký)