Pháp lệnh Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản năm 1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành

Số hiệu 18-LCT/HĐNN8
Ngày ban hành 25/04/1989
Ngày có hiệu lực 05/05/1989
Loại văn bản Pháp lệnh
Cơ quan ban hành Hội đồng Nhà nước
Người ký Võ Chí Công
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 18-LCT/HĐNN8

Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 1989

 

PHÁP LỆNH

CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ NƯỚC SỐ 18-LCT/HĐNN8 NGÀY 05/05/1989 VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THUỶ SẢN

Nguồn lợi thuỷ sản là tài nguyên sinh vật vô cùng quý giá, có khả năng tái tạo, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân.
Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản là yêu cầu cấp thiết trước mắt và lâu dài; là trách nhiệm của toàn dân, của các ngành, các cấp và các lực lượng vũ trang nhân dân;
Căn cứ vào Điều 19, Điều 36 và Điều 100 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Pháp lệnh này quy định việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

Chương 1:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1

Nguồn lợi thuỷ sản nói trong Pháp lệnh này bao gồm mọi sinh vật có giá trị kinh tế, khoa học, sống ở các vùng nước nội địa, nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

Điều 2

Môi trường sống của các loài thuỷ sản bao gồm vùng nước, mặt đất ngập nước và phần đất mà các loài thuỷ sản sinh sống, sau đây gọi chung là vùng nước.

Sinh vật thuỷ sản sống tự nhiên ở các vùng nước thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân. Sinh vật thuỷ sản do nuôi trồng thuộc sở hữu toàn dân hoặc các hình thức sở hữu khác.

Nhà nước thống nhất quản lý nguồn lợi thuỷ sản và môi trường sống của các loài thuỷ sản.

Điều 3

Việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản phải gắn liền với bảo vệ môi trường sống, trên cơ sở bảo đảm nhịp độ phát triển thuỷ sản, bảo đảm đời sống trước mắt và lâu dài của ngư dân và hiệu quả kinh tế của toàn xã hội.

Điều 4

Nhà nước thống nhất quản lý việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản bằng các chính sách, theo quy hoạch và kế hoạch, sử dụng tổng hợp các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, kỹ thuật, kinh tế, pháp luật để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là bảo vệ các loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, quý hiếm.

Tổ chức Nhà nước, xã hội, tập thể, tư nhân (sau đây gọi chung là tổ chức) và cá nhân có quyền khai thác nguồn lợi thuỷ sản thiên nhiên theo quy định của Pháp lệnh này ở các vùng nước do Nhà nước quản lý.

Tuỳ theo vùng nước, Nhà nước giao cho tổ chức, cá nhân sử dụng từng vùng nước ổn định lâu dài, hoặc có thời hạn để nuôi trồng, khai thác thuỷ sản với các hình thức phù hợp, nhằm bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

Vùng nước được giao chỉ bị thu hồi trong các trường hợp do pháp luật quy định. Hội đồng bộ trưởng quy định thẩm quyền, căn cứ và trình tự giao, thu hồi vùng nước.

Điều 5

Nghiêm cấm mọi hành vi gây tác hại đến nguồn lợi, môi trường sống của các loài thuỷ sản, đến việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

Điều 6

Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, tiền vốn, vật tư, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, liên kết và liên doanh trong các khâu bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, nuôi trồng, khai thác, chế biến thuỷ sản; đặc biệt đối với các nghề tiến bộ, các nghề khai thác ở các vùng biển xa bờ.

Điều 7

Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản là nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân.

Tổ chức, cá nhân sử dụng vùng nước được giao để nuôi trồng, khai thác thuỷ sản có trách nhiệm xây dựng quy hoạch, kế hoạch thực hiện các biện pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản để chủ động đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản.

Nhà nước bảo đảm quyền hợp pháp của tổ chức, cá nhân sử dụng vùng nước để nuôi trồng, khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

Chương 2:

BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THUỶ SẢN

[...]