Luật Đất đai 2024

Nghị quyết số 28-NQ/TW về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh do Bộ Chính trị ban hành

Số hiệu 28-NQ/TW
Cơ quan ban hành Bộ Chính trị
Ngày ban hành 16/06/2003
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Doanh nghiệp
Loại văn bản Nghị quyết
Người ký Nông Đức Mạnh
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

BỘ CHÍNH TRỊ
*****

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM  
*******

Số: 28-NQ/TW

Hà Nội, ngày 16 tháng 06 năm 2003

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ TIẾP TỤC SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH

I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH

Nông, lâm trường quốc doanh được thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là khai hoang mở rộng diện tích canh tác ở các vùng đất mới, phát triển sản xuất nông, lâm sản hàng hoá cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi, đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông, lâm nghiệp; làm trung tâm xây dựng một số vùng kinh tế mới, nông thôn mới; kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng ở những vùng xung yếu, khó khăn.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong nông nghiệp, các nông, lâm trường quốc doanh đã có những chuyển đổi quan trọng cả về tổ chức quản lý và nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống người lao động. Nông, lâm trường quốc doanh đã có đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên nhiều địa bàn nông thôn, miền núi. Nhiều nông, lâm trường đã trở thành nòng cốt phát triển một số ngành hàng nông, lâm sản quan trọng, hình thành và phát triển vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, tạo thuận lợi cho xây dựng cơ sở chế biến nông, lâm sản.

Một số nông, lâm trường đã làm tốt vai trò trung tâm kinh tế - kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, cung cấp giống cây trồng, giống vật nuôi, dịch vụ kỹ thuật và tiêu thụ, chế biến nông sản cho nông dân trong vùng; thực hiện sản xuất, kinh doanh tổng hợp, gắn sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ nông, lâm sản đạt hiệu quả kinh tế cao, tạo được một số mô hình mới về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Nhiều nông, lâm trường đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hình thành các tụ điểm văn hoá, trung tâm kinh tế - xã hội, thị trấn, thị tứ trên địa bàn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, vùng biên giới, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.

Tuy nhiên, các nông, lâm trường còn những yếu kém sau đây:

Hiệu quả sử dụng đất đai còn thấp, diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều; quản lý đất đai, tài nguyên rừng còn nhiều yếu kém; tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai giữa hộ dân với nông trường xảy ra ở nhiều nơi. Chủ trương giao khoán đất đai, vườn cây, rừng ổn định lâu dài cho hộ thành viên chậm được thực hiện, hoặc thực hiện không đúng; một số nông, lâm trường đã khoán trắng cho người nhận khoán.

Việc chỉ đạo thí điểm bán vườn cây, đàn gia súc ở một số nơi thiếu chặt chẽ làm thất thoát tài sản của Nhà nước và của nông, lâm trường. Việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất chậm được đổi mới, chủ yếu vẫn sử dụng giống cây, con cũ, giống đã thoái hoá; kỹ thuật canh tác, trang thiết bị phục vụ sản xuất, cơ sở công nghiệp chế biến còn lạc hậu. Sản phẩm của nông, lâm trường chưa đa dạng, chất lượng còn thấp.

Sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả thấp, số nông, lâm trường làm ăn có lãi chưa nhiều, mức nộp ngân sách hàng năm ít, công nợ phải trả lớn. Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trong nông, lâm trường xuống cấp nghiêm trọng. Đời sống cán bộ, công nhân viên còn nhiều khó khăn, việc đóng bảo hiểm xã hội cho cán bộ, công nhân viên trong nông, lâm trường chưa được thực hiện nghiêm túc. Một số nông trường chưa quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào tại chỗ, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số gắn bó với nông trường, ổn định sản xuất, đời sống. Bộ máy quản lý của các nông, lâm trường tuy có giảm nhiều so với trước, nhưng vẫn còn lớn, hiệu quả điều hành thấp.

Nguyên nhân của những yếu kém trên có phần do nông, lâm trường hoạt động trên những địa bàn khó khăn, vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, kinh tế chậm phát triển, sản xuất có nhiều rủi ro, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan sau:

1. Sự chỉ đạo của Chính phủ và các ngành, các cấp chưa tương xứng, chưa đủ cụ thể. Một thời gian dài thiếu quan tâm và buông lỏng chỉ đạo, thiếu kiên quyết khắc phục những thiếu sót, yếu kém. Một số chính sách của Nhà nước đối với nông, lâm trường không còn phù hợp nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung đồng bộ. Chưa làm rõ chức năng, nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh với nhiệm vụ công ích của nông, lâm trường, nên lúng túng trong tổ chức lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nông, lâm trường. Chưa làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để phát huy những ưu điểm, nhân điển hình tiên tiến và kịp thời chấn chỉnh, khắc phục yếu kém, khuyết điểm của nông, lâm trường.

2. Nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương có nông, lâm trường chưa quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của nông, lâm trường; chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của nông, lâm trường nên chưa tập trung chỉ đạo, giúp đỡ nông, lâm trường đổi mới, phát triển. Tổ chức cơ sở đảng trong nông, lâm trường chưa làm tốt vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình.

3. Các nông, lâm trường được xây dựng và tồn tại quá lâu trong cơ chế tập trung, bao cấp nên nhìn chung, đội ngũ cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu, cán bộ và công nhân ở nhiều nông, lâm trường còn biểu hiện thụ động, trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, không tích cực chuyển đổi nội dung và phương thức hoạt động theo cơ chế mới.

II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH

A- Mục tiêu, quan điểm

1. Đổi mới nông, lâm trường quốc doanh phải góp phần thực hiện tốt các chủ trương đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn: nâng cao hiệu quả sử dụng bền vững tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng, vườn cây lâu năm và cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có; hình thành các vùng sản xuất nông, lâm sản hàng hoá tập trung, chuyên canh, thâm canh quy mô lớn gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ; nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh; tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, bảo vệ môi trường sinh thái và góp phần xoá đói, giảm nghèo.

2. Đổi mới nông, lâm trường quốc doanh phải tạo được cơ chế quản lý mới và hình thức tổ chức phù hợp để thúc đẩy ứng dụng nhanh và có hiệu quả các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông, lâm nghiệp; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bổ lại lao động và dân cư; làm điểm tựa cho phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

3. Đổi mới nông, lâm trường quốc doanh phải gắn với đổi mới về cơ chế quản lý theo hướng phân biệt rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ công ích. Nông, lâm trường làm nhiệm vụ kinh doanh là chủ yếu thì phải chuyển hẳn sang sản xuất và hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự hỗ trợ cần thiết và có điều kiện của Nhà nước. Những nông, lâm trường tuy đã chuyển sang kinh doanh nhưng còn phải đảm nhận một phần chức năng xã hội và an ninh, quốc phòng thì Nhà nước có chính sách hỗ trợ thích hợp. Nông, lâm trường được giao nhiệm vụ công ích là chủ yếu thì hoạt động theo loại hình doanh nghiệp công ích.

B- Phương hướng, nhiệm vụ

1. Nông trường

a) Những nông trường chuyên canh cây lâu năm (như cao su, cà phê, chè, cây ăn quả...), có cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh cần tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả theo hướng: tập trung đầu tư thâm canh diện tích vườn cây đã trồng, gắn với đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng cơ sở chế biến hiện có hoặc xây dựng cơ sở chế biến mới (theo hướng huy động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nông trường tham gia góp cổ phần) để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; chỉ mở rộng thêm diện tích trồng mới khi có dự án thực sự hiệu quả; diện tích đất chưa sử dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả thì chính quyền địa phương thu hồi để sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai.

b) Những nông trường sản xuất cây hàng năm và chăn nuôi thì chuyển đổi theo hướng:

Nông trường chuyên canh mía, dứa, dâu tằm, bông, thuốc lá..., phải được tổ chức lại sản xuất gắn với cơ sở chế biến, đồng thời phải chuyển nhanh sang sản xuất giống, xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để phục vụ nông trường và thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp trong vùng.

Những nông trường sản xuất cây lương thực, cây hàng năm khác và chăn nuôi phải chuyển hẳn sang sản xuất giống và xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để chuyển giao cho hộ nông dân sản xuất; đầu tư cải tạo, nâng cấp, mở rộng cơ sở chế biến hiện có hoặc xây dựng cơ sở chế biến mới và tổ chức kinh doanh để hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

c) Tiếp tục giữ lại hoặc thành lập mới những nông trường ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số và có yêu cầu phục vụ cho định canh, định cư, an ninh - quốc phòng. Nông trường chỉ quản lý một diện tích đất phù hợp để sản xuất giống, xây dựng mô hình ứng dụng, chuyển giao kỹ thuật và xây dựng cơ sở chế biến để phục vụ đồng bào trong vùng; kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với an ninh, quốc phòng.

d) Chuyển sang loại hình sở hữu khác hoặc giải thể những nông trường nhiều năm làm ăn thua lỗ hoặc thu nhập dựa chủ yếu từ nguồn thu cho thuê đất, không có yêu cầu giữ lại.

2. Lâm trường

a) Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là rừng sản xuất và đất trồng rừng nguyên liệu cần được tiếp tục đầu tư thâm canh, sử dụng giống mới, gắn lâm trường (vùng nguyên liệu) với nhà máy chế biến (cả về tổ chức và hợp đồng kinh tế) và hoạt động theo cơ chế sản xuất, kinh doanh.

b) Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là đất có rừng tự nhiên và diện tích đất được quy hoạch trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thì chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu (ban quản lý).

c) Những lâm trường quản lý diện tích đất lâm nghiệp ít, phân bố xen kẽ với đất nông nghiệp và gần khu dân cư thì thu hẹp diện tích, chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu, làm dịch vụ sản xuất cây giống, xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân trong vùng. Diện tích còn lại thì chính quyền địa phương thu hồi để đưa vào sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai.

d) Những lâm trường không cần giữ lại thì giải thể, chính quyền địa phương thu hồi đất để sử dụng theo quy định của pháp luật.

C- Một số giải pháp chủ yếu

1. Thực hiện tốt việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông, lâm nghiệp, quy hoạch sử dụng đất và xác định rõ nhiệm vụ của từng nông, lâm trường

Rà soát lại quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch, kế hoạch phát triển nông, lâm trường trên từng địa bàn, từng vùng sinh thái và từng địa phương. Xác định rõ nhiệm vụ của từng nông, lâm trường theo phương hướng sắp xếp, đổi mới nêu trên.

Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng nông, lâm trường, tiến hành rà soát, làm rõ tình hình đất đai của các nông, lâm trường trên bản đồ và trên thực địa. Xác định rõ diện tích đất cần giữ lại cho từng nông trường, lâm trường; diện tích đất dôi ra giao lại cho chính quyền địa phương để giao cho các hộ nông dân theo pháp luật gắn với thực hiện tốt chủ trương giao đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, khắc phục nhanh tình trạng đồng bào không có đất ở, không có đất sản xuất, nhất là ở các vùng Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ.

Đất nông, lâm trường sử dụng không đúng mục đích, không đúng quy hoạch và kém hiệu quả thì uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thu hồi để giao hoặc cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai.

Đất nông, lâm trường đã cho các tổ chức, hộ gia đình thuê, mượn, nếu đang sản xuất nông, lâm nghiệp phù hợp với quy hoạch và quy định của pháp luật thì được tiếp tục sử dụng và phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước theo đúng các quy định hiện hành.

Đất của nông, lâm trường bị lấn chiếm thì phải thu hồi. Đất tranh chấp giữa hộ dân cư với nông, lâm trường cần được xem xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết theo pháp luật đất đai. Đất tranh chấp giữa các tổ chức khác với nông, lâm trường thì căn cứ theo quy hoạch của địa phương (cấp tỉnh) và chức năng, nhiệm vụ của nông, lâm trường và tổ chức đang tranh chấp để giải quyết theo quy định của pháp luật đất đai.

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của từng nông, lâm trường, căn cứ vào quy hoạch phát triển nông, lâm nghiệp trên địa bàn và diện tích đất đã được rà soát điều chỉnh lại, uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cắm mốc, xác định rõ ranh giới và ra quyết định giao đất hoặc cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông, lâm trường. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần hoàn thành chậm nhất vào năm 2005.

2. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý của nông, lâm trường

Đối với nông, lâm trường có chức năng, nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh là chính thì chuyển sang thuê đất của Nhà nước và được hưởng chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Nông, lâm trường phải thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng, ổn định lâu dài cho cán bộ, công nhân viên, hộ gia đình công nhân, nông dân (theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về "Tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước") và thực hiện tiêu thụ nông, lâm sản thông qua hợp đồng với người nhận khoán trong và ngoài nông, lâm trường.

Đối với nông, lâm trường chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu thì được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất. Nông, lâm trường phải quản lý đất đai, rừng và tổ chức sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch được giao; Nhà nước quy định về tổ chức quản lý và giao biên chế phù hợp với nhiệm vụ; có chính sách tài chính phù hợp đối với phần thu của nông, lâm trường.

Các nông, lâm trường phải tiếp tục đổi mới và phát triển các hình thức khoán ổn định, lâu dài đến hộ công nhân, người lao động theo hướng tăng cường vai trò, trách nhiệm quản lý, điều hành của nông, lâm trường; đồng thời, nâng cao tính năng động của người nhận khoán để sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao hơn; gắn lợi ích của người lao động với kết quả sản xuất, bảo đảm hài hoà lợi ích của nông, lâm trường và người lao động.

Đối với diện tích đất đã thực hiện khoán đến hộ công nhân và người lao động, nếu thực hiện đúng hợp đồng, sử dụng đúng mục đích thì hộ nhận khoán được tiếp tục sử dụng đất đai theo hợp đồng đã ký kết và có điều chỉnh, bổ sung phù hợp trách nhiệm quản lý đất của nông, lâm trường. Những diện tích đất khoán trắng cho người nhận khoán (thực chất là cho thuê đất), thì phải thu hồi để chuyển sang hình thức giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật.

Cần tiến hành sơ kết việc thực hiện giao khoán đất, khoán vườn cây, khoán rừng trong các nông, lâm trường để sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh cơ chế khoán đạt hiệu quả cao hơn và khắc phục các lệch lạc. Đối với diện tích đất chưa khoán phải tổ chức khoán ổn định, lâu dài cho cán bộ, công nhân viên nông, lâm trường và nông dân trong vùng.

Đối với những lâm trường có diện tích rừng tự nhiên và đất có khả năng phục hồi thành rừng tự nhiên thì áp dụng chế độ khoán bảo vệ, khoanh nuôi, chăm sóc ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, nhóm hộ, cộng đồng thôn bản.

3. Về khoa học, công nghệ

Các nông, lâm trường phải đẩy mạnh triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ mới, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến và các khâu sau thu hoạch. Hợp tác, liên kết với các cơ sở nghiên cứu khoa học để bảo vệ nguồn gen, chọn lọc, lai tạo và sản xuất giống cây nông nghiệp, lâm nghiệp và vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. Có chính sách hỗ trợ từ nguồn ngân sách cho việc nhập khẩu những nguồn gen quý, giống tốt có năng suất, chất lượng cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng để sản xuất giống tốt cung cấp cho nhu cầu sản xuất của nông, lâm trường và nông dân trong vùng.

Nông, lâm trường phải là trung tâm chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới, công nghệ cao, cung cấp dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, thông tin thị trường đối với nông dân trong vùng. Có chính sách hỗ trợ kinh phí khuyến nông, khuyến lâm phù hợp cho nông, lâm trường.

4. Chính sách tài chính

Các nông, lâm trường chuyển sang hoạt động sản xuất, kinh doanh phải hạch toán kinh tế theo Luật Doanh nghiệp. Nông, lâm trường phải thực hiện quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh.

Tiền thanh lý vườn cây, rừng trồng, đàn gia súc, tiền trích khấu hao cơ bản, tiền thuế thu nhập doanh nghiệp được để lại cho nông, lâm trường để đầu tư cho thâm canh, trồng rừng mới và trồng lại vườn cây, mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Nông, lâm trường được hỗ trợ đầu tư từ nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước; thời hạn vay vốn theo chu kỳ kinh doanh của từng loại cây trồng, vật nuôi; được Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội theo quy hoạch, kế hoạch và vùng dự án.

Các nông, lâm trường bàn giao đường giao thông, hệ thống điện, công trình thuỷ lợi, trường học, bệnh xá... xây dựng trước đây để phục vụ nhu cầu chung trên địa bàn về cho các địa phương quản lý và được giảm vốn tương ứng với giá trị tài sản khi bàn giao. Đối với các nông, lâm trường được duy trì, xây dựng ở vùng đặc biệt khó khăn do yêu cầu an ninh - quốc phòng, làm nhiệm vụ công ích được ngân sách bố trí kế hoạch để đầu tư, duy tu bảo dưỡng, sửa chữa cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.

Thực hiện cổ phần hoá các nhà máy, cơ sở chế biến của nông, lâm trường theo quy định hiện hành; thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng của nông, lâm trường gắn với cổ phần hoá doanh nghiệp chế biến, có chính sách để người sản xuất nguyên liệu được hưởng lợi ích mua cổ phần ưu đãi như người chế biến; không cổ phần hoá rừng tự nhiên và những diện tích đất có khả năng phục hồi thành rừng tự nhiên.

Đối với các nông, lâm trường chuyển sang hoạt động công ích được thực hiện chính sách như doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Cần rà soát các định mức trồng, khoanh nuôi, bảo vệ, tái sinh rừng để điều chỉnh những định mức không phù hợp; đồng thời tăng cường đầu tư cho lực lượng kiểm lâm nhân dân. Các yếu kém về tài chính, như các khoản lỗ, nợ quá hạn... được xử lý theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) và các quyết định của Chính phủ.

5. Chính sách đối với người lao động

Hộ gia đình cán bộ, công nhân viên nông, lâm trường (bao gồm cả những người đang làm việc, người nghỉ mất sức, người nghỉ hưu và những người xin thôi việc) cư trú hợp pháp trên địa bàn, chưa được cấp đất ở thì chính quyền địa phương giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở trên cơ sở quy hoạch khu dân cư của địa phương.

Đối với những nông, lâm trường đã giải thể hoặc hộ công nhân viên không còn làm việc ở nông, lâm trường thì các hộ gia đình này được chính quyền địa phương xem xét giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Cán bộ, công nhân viên nông, lâm trường trong danh sách, đang làm việc, không hưởng lương do nông, lâm trường trả, nhưng có thu nhập từ kết quả sản xuất do nhận khoán đất, nhận khoán rừng, vườn cây, đàn gia súc của nông, lâm trường có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội và được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Nhà nước.

Lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại nông, lâm trường cần được giải quyết theo quy định của pháp luật về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.

Nhà nước có chính sách đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật của nông, lâm trường nhằm nâng cao trình độ, năng lực điều hành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới; có chính sách hỗ trợ nông, lâm trường đào tạo lao động người dân tộc thiểu số tại chỗ thành nông, lâm trường viên để giúp đồng bào ổn định cuộc sống, gắn bó với nông trường.

6. Phân cấp quản lý nông, lâm trường

Đối với những nông, lâm trường làm nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh trồng cây công nghiệp phải gắn với nhà máy chế biến hoặc thị trường tiêu thụ thì tiếp tục giữ và đưa vào làm thành viên của các doanh nghiệp nhà nước.

Cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý nhà nước đối với các nông, lâm trường theo các quy định hiện hành như đối với doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp có thu của Nhà nước.

III- TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN

1. Trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị về việc "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh", Ban cán sự đảng Chính phủ có chương trình triển khai thực hiện, phấn đấu đến năm 2005 cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh; thành lập Ban chỉ đạo phù hợp để chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết này.

2. Ban cán sự đảng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, các tổng công ty có liên quan xây dựng đề án tổng thể về "sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh" và tổ chức chỉ đạo, thực hiện; kịp thời đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải pháp xử lý những vướng mắc trong quá trình sắp xếp, đổi mới, phát triển nông, lâm trường quốc doanh.

3. Các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương lập đề án cụ thể về sắp xếp, đổi mới, phát triển nông, lâm trường quốc doanh của địa phương mình và tổ chức chỉ đạo thực hiện; đặc biệt quan tâm củng cố các tổ chức đảng trong nông, lâm trường quốc doanh vững mạnh, coi đây là nhân tố quan trọng đảm bảo sự thành công của việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường.

4. Giao Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với các bộ, ngành, địa phương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết này.

 

 

TỔNG BÍ THƯ




Nông Đức Mạnh

 

48
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Nghị quyết số 28-NQ/TW về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh do Bộ Chính trị ban hành
Tải văn bản gốc Nghị quyết số 28-NQ/TW về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh do Bộ Chính trị ban hành
Chưa có văn bản song ngữ
Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Nghị quyết số 28-NQ/TW về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh do Bộ Chính trị ban hành
Số hiệu: 28-NQ/TW
Loại văn bản: Nghị quyết
Lĩnh vực, ngành: Doanh nghiệp
Nơi ban hành: Bộ Chính trị
Người ký: Nông Đức Mạnh
Ngày ban hành: 16/06/2003
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Nghị quyết này được hướng dẫn bởi Thông báo số 182/TB-VPCP năm 2003 có hiệu lực từ ngày 14/11/2003
Ngày 7 tháng 11 năm 2003, Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự và chủ trì, hội nghị triển khai Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 16 tháng 6 năm 2003 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh. Tham dự Hội nghị có đại diện Ban Kinh tế Trung ương, lãnh đạo các Bộ, ngành: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Quốc phòng, Uỷ ban Dân tộc, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; lãnh đạo các Tổng công ty nhà nước về nông nghiệp, lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và lãnh đạo các sở: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Lao động - Thương binh và Xã hội.

Sau khi nghe Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, ý kiến của lãnh đạo các Bộ, ngành, Tổng công ty nhà nước và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có ý kiến như sau:

1. Nông, lâm trường quốc doanh là loại hình doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp, kể từ khi thành lập đến nay đã nhiều lần tiến hành đổi mới quản lý, tổ chức lại sản xuất để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Trong quá trình xây dựng, phát triển nhất là trong thời kỳ đổi mới nông, lâm trường quốc doanh đã có nhiều đóng góp tích cực trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nhưng cũng còn nhiều tồn tại và yếu kém trong tổ chức sản xuất, quản lý, sản xuất kinh doanh như Nghị quyết của Bộ Chính trị đã đánh giá. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2003 của Bộ Chính trị và Quyết định số 179/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh là cụ thể Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX về sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp. Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu tham gia tại Hội nghị các Bộ, ngành tiếp thu, bổ sung và sớm hoàn chỉnh dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn đã được phân công cụ thể tại Quyết định số 179/2003/QĐ-TTg ngày 3 tháng 9 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thời gian ban hành các văn bản trong năm 2003.

2. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Bộ có nông, lâm trường quốc doanh, Tổng công ty Cà phê Việt Nam, Tổng công ty Cao su Việt Nam, căn cứ nội dung phương hướng nhiệm vụ nông, lâm trường đã được ghi trong Nghị quyết tiến hành xây dựng phương án sắp xếp lại nông, lâm trường của mình quản lý trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thời gian thực hiện từ tháng 11 năm 2003, thời gian hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2004. Đối với phương án sáp xếp nông, lâm trường của địa phương trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phải xin ý kiến Thường vụ Tỉnh ủy và thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để có sự thống nhất.

Việc thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng của nông, lâm trường phải có phương án cụ thể và bước đi phù hợp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Đối với việc thành lập mới nông, lâm trường ở những nơi cần thiết phải có phương án cụ thể trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quy định trình tự thành lập mới doanh nghiệp Nhà nước.

3. Bộ Tài chính hướng dẫn việc xử lý các khoản nợ tồn đọng trong các nông, lâm trường quốc doanh theo các quy định tại Nghị định số 69/2002/NĐ-CP ngày 12 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ về quản lý và xử lý nợ tồn đọng đối với doanh nghiệp Nhà nước.

4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn chính sách về giải quyết lao động dôi dư trong nông, lâm trường quốc doanh theo các quy định tại Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.

5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn cụ thể về biên chế cho Ban quản lý đối với những lâm trường chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu. Việc chuyển các lâm trường thành đơn vị sự nghiệp có thu phải gắn với các huyện, thị xã để chăm sóc, bảo vệ rừng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước về lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương biết, thực hiện.

Xem nội dung VB
NGHỊ QUYẾT VỀ TIẾP TỤC SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
Nghị quyết này được hướng dẫn bởi Công văn số 359/Pg-NN năm 2003 có hiệu lực từ ngày 10/9/2003
Văn Phòng Chính Phủ xin gửi Phụ lục Chương trình, kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28/NQ-TW ngày 16 tháng 6 năm 2003 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh” kèm theo Quyết định số 179/2003/QĐ-TTg ngày 3 tháng 9 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ.
...
PHỤ LỤC CHƯƠNG TRÌNH, KẾ HOẠCH CỦA CHÍNH PHỦ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 28-NQ/TW, NGÀY 16 THÁNG 6 NĂM 2003 CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ "TIẾP TỤC SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH"

Xem nội dung VB
NGHỊ QUYẾT VỀ TIẾP TỤC SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
Nghị quyết này được hướng dẫn bởi Thông báo số 182/TB-VPCP năm 2003 có hiệu lực từ ngày 14/11/2003
Nghị quyết này được hướng dẫn bởi Công văn số 359/Pg-NN năm 2003 có hiệu lực từ ngày 10/9/2003
Biên chế của ban quản lý rừng tại điểm này được hướng dẫn bởi Thông tư 86/2005/TT-BNV có hiệu lực từ ngày 15/9/2005
Thi hành Quyết định số 179/2003/QĐ-TTg ngày 3 tháng 9 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình, Kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28 của Bộ Chính trị- Ban Chấp hành Trương ương Đảng khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, Nghị định số 200/2004/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh, Bộ Nội vụ hướng dẫn về biên chế của Ban Quản lý rừng phòng hộ, Ban Quản lý rừng đặc dụng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập theo Đề án sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như sau:

I. BIÊN CHẾ CỦA BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ, BAN QUẢN LÝ RỪNG ĐẶC DỤNG (sau đây gọi chung là Ban quản lý rừng)

1. Biên chế ban đầu khi thành lập

Căn cứ quy mô, khối lượng công việc, nhiệm vụ cụ thể của Ban Quản lý rừng và khả năng của ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định biên chế cụ thể khi thành lập Ban Quản lý rừng nhưng tối thiểu là 5 người (đối với rừng đặc dụng) và 7 người (đối với rừng phòng hộ) để thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng (không tính biên chế của tổ chức kiểm lâm trong rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và biên chế bảo vệ rừng).

Biên chế của lực lượng kiểm lâm trong rừng đặc dụng hoặc rừng phòng hộ là biên chế hành chính được Chính phủ phê duyệt và giao hàng năm trong tổng chỉ tiêu biên chế hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước ở trung ương và địa phương.

Việc bố trí công chức kiểm lâm tại các Hạt, Trạm kiểm lâm trong rừng đặc dụng, rừng phòng hộ có Ban Quản lý rừng do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể theo đề nghị của Ban Quản lý rừng, phù hợp với kế hoạch bảo vệ rừng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc bảo vệ và phát triển rừng thực hiện quy định tại các Điều 54, 61 và 62 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 là khoán bảo vệ và phát triển rừng cho hộ gia đình, cá nhân tại chỗ để ổn định đời sống dân cư sống trong các khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ.

Biên chế bảo vệ rừng là biên chế sự nghiệp do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo khả năng ngân sách địa phương dành cho hoạt động quản lý và bảo vệ rừng chỉ bố trí trong trường hợp không thực hiện được phương thức giao khoán bảo vệ và phát triển rừng.

2. Chỉ tiêu biên chế hàng năm

Chỉ tiêu biên chế hàng năm của Ban Quản lý rừng bao gồm:

2.1. Biên chế ban đầu khi thành lập Ban Quản lý rừng;

2.2. Biên chế thực hiện sự điều chỉnh nhiệm vụ hàng năm của Ban Quản lý rừng theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;

2.3. Biên chế thực hiện hoạt động sự nghiệp khác, dịch vụ theo yêu cầu thực tiễn và phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý rừng.

3. Cơ chế tự chủ về chỉ tiêu biên chế

Căn cứ vào nguồn kinh phí của Nhà nước được cấp hàng năm về quản lý và bảo vệ rừng, dự án đầu tư phát triển rừng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và các nguồn thu dịch vụ khác để đảm bảo khả năng tự trang trải chi phí hoạt động thường xuyên, Giám đốc Ban Quản lý rừng được quyền tự chủ về chỉ tiêu biên chế hàng năm theo các mức sau:

3.1. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên; được quyết định biên chế tăng hàng năm của mình.

3.2. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao kinh phí để thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công hoặc giao kinh phí bằng hình thức định mức chi theo khối lượng công việc; được quyết định biên chế tăng thêm của đơn vị mình phù hợp với nhiệm vụ và kinh phí tăng thêm hàng năm theo tỷ lệ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.

3.3. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao kinh phí để thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công hoặc giao kinh phí bằng hình thức định mức chi theo khối lượng công việc: có trách nhiệm đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt biên chế tăng thêm hàng năm phù hợp với nhiệm vụ và kinh phí tăng thêm hàng năm.

3.4. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp không có thu: có trách nhiệm đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định biên chế tăng thêm hàng năm của đơn vị mình phù hợp với nhiệm vụ và kinh phí tăng thêm hàng năm theo tỷ lệ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định.

4. Quản lý và sử dụng biên chế

4.1. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với viên chức lãnh đạo Ban Quản lý rừng thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.

4.2. Việc tuyển dụng viên chức theo hình thức hợp đồng làm việc trong biên chế của Ban Quản lý rừng phải thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức (Pháp lệnh cán bộ, công chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003, Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, Nghị định 112/2004/NĐ-CP ngày 8 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ quy định cơ chế quản lý biên chế đối với đơn vị sự nghiệp của Nhà nước và các văn bản khác hướng dẫn việc thực hiện các Nghị định nêu trên).

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.

2. Giám đốc lâm trường có trách nhiệm lập phương án sắp xếp, tinh giản biên chế theo quy định của pháp luật trong Đề án chuyển lâm trường thành Ban Quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và chuyển giao Giám đốc Ban Quản lý rừng thực hiện sau khi Đề án được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ Thông tư này chỉ đạo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với giám đốc Sở Nội vụ hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Đề án chuyển đổi lâm trường quốc doanh thành Ban quản lý rừng đã được phê duyệt.

4. Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề phát sinh hoặc có khó khăn, vướng mắc đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phản ánh kịp thời về Bộ Nội vụ để nghiên cứu, giải quyết.

Xem nội dung VB
II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
...
B- Phương hướng, nhiệm vụ
...
2. Lâm trường
...
b) Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là đất có rừng tự nhiên và diện tích đất được quy hoạch trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thì chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu (ban quản lý).
Biên chế của ban quản lý rừng tại điểm này được hướng dẫn bởi Thông tư 86/2005/TT-BNV có hiệu lực từ ngày 15/9/2005
Biên chế của ban quản lý rừng tại điểm này được hướng dẫn bởi Thông tư 86/2005/TT-BNV có hiệu lực từ ngày 15/9/2005
Thi hành Quyết định số 179/2003/QĐ-TTg ngày 3 tháng 9 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình, Kế hoạch của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28 của Bộ Chính trị- Ban Chấp hành Trương ương Đảng khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, Nghị định số 200/2004/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh, Bộ Nội vụ hướng dẫn về biên chế của Ban Quản lý rừng phòng hộ, Ban Quản lý rừng đặc dụng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập theo Đề án sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như sau:

I. BIÊN CHẾ CỦA BAN QUẢN LÝ RỪNG PHÒNG HỘ, BAN QUẢN LÝ RỪNG ĐẶC DỤNG (sau đây gọi chung là Ban quản lý rừng)

1. Biên chế ban đầu khi thành lập

Căn cứ quy mô, khối lượng công việc, nhiệm vụ cụ thể của Ban Quản lý rừng và khả năng của ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định biên chế cụ thể khi thành lập Ban Quản lý rừng nhưng tối thiểu là 5 người (đối với rừng đặc dụng) và 7 người (đối với rừng phòng hộ) để thực hiện nhiệm vụ tổ chức và quản lý các hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng (không tính biên chế của tổ chức kiểm lâm trong rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và biên chế bảo vệ rừng).

Biên chế của lực lượng kiểm lâm trong rừng đặc dụng hoặc rừng phòng hộ là biên chế hành chính được Chính phủ phê duyệt và giao hàng năm trong tổng chỉ tiêu biên chế hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước ở trung ương và địa phương.

Việc bố trí công chức kiểm lâm tại các Hạt, Trạm kiểm lâm trong rừng đặc dụng, rừng phòng hộ có Ban Quản lý rừng do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể theo đề nghị của Ban Quản lý rừng, phù hợp với kế hoạch bảo vệ rừng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc bảo vệ và phát triển rừng thực hiện quy định tại các Điều 54, 61 và 62 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004 là khoán bảo vệ và phát triển rừng cho hộ gia đình, cá nhân tại chỗ để ổn định đời sống dân cư sống trong các khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ.

Biên chế bảo vệ rừng là biên chế sự nghiệp do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo khả năng ngân sách địa phương dành cho hoạt động quản lý và bảo vệ rừng chỉ bố trí trong trường hợp không thực hiện được phương thức giao khoán bảo vệ và phát triển rừng.

2. Chỉ tiêu biên chế hàng năm

Chỉ tiêu biên chế hàng năm của Ban Quản lý rừng bao gồm:

2.1. Biên chế ban đầu khi thành lập Ban Quản lý rừng;

2.2. Biên chế thực hiện sự điều chỉnh nhiệm vụ hàng năm của Ban Quản lý rừng theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền;

2.3. Biên chế thực hiện hoạt động sự nghiệp khác, dịch vụ theo yêu cầu thực tiễn và phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý rừng.

3. Cơ chế tự chủ về chỉ tiêu biên chế

Căn cứ vào nguồn kinh phí của Nhà nước được cấp hàng năm về quản lý và bảo vệ rừng, dự án đầu tư phát triển rừng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và các nguồn thu dịch vụ khác để đảm bảo khả năng tự trang trải chi phí hoạt động thường xuyên, Giám đốc Ban Quản lý rừng được quyền tự chủ về chỉ tiêu biên chế hàng năm theo các mức sau:

3.1. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên; được quyết định biên chế tăng hàng năm của mình.

3.2. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao kinh phí để thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công hoặc giao kinh phí bằng hình thức định mức chi theo khối lượng công việc; được quyết định biên chế tăng thêm của đơn vị mình phù hợp với nhiệm vụ và kinh phí tăng thêm hàng năm theo tỷ lệ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định.

3.3. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao kinh phí để thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công hoặc giao kinh phí bằng hình thức định mức chi theo khối lượng công việc: có trách nhiệm đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt biên chế tăng thêm hàng năm phù hợp với nhiệm vụ và kinh phí tăng thêm hàng năm.

3.4. Ban Quản lý rừng là đơn vị sự nghiệp không có thu: có trách nhiệm đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định biên chế tăng thêm hàng năm của đơn vị mình phù hợp với nhiệm vụ và kinh phí tăng thêm hàng năm theo tỷ lệ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định.

4. Quản lý và sử dụng biên chế

4.1. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với viên chức lãnh đạo Ban Quản lý rừng thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo.

4.2. Việc tuyển dụng viên chức theo hình thức hợp đồng làm việc trong biên chế của Ban Quản lý rừng phải thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức (Pháp lệnh cán bộ, công chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003, Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, Nghị định 112/2004/NĐ-CP ngày 8 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ quy định cơ chế quản lý biên chế đối với đơn vị sự nghiệp của Nhà nước và các văn bản khác hướng dẫn việc thực hiện các Nghị định nêu trên).

II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.

2. Giám đốc lâm trường có trách nhiệm lập phương án sắp xếp, tinh giản biên chế theo quy định của pháp luật trong Đề án chuyển lâm trường thành Ban Quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và chuyển giao Giám đốc Ban Quản lý rừng thực hiện sau khi Đề án được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ Thông tư này chỉ đạo Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với giám đốc Sở Nội vụ hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Đề án chuyển đổi lâm trường quốc doanh thành Ban quản lý rừng đã được phê duyệt.

4. Trong quá trình thực hiện nếu có vấn đề phát sinh hoặc có khó khăn, vướng mắc đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phản ánh kịp thời về Bộ Nội vụ để nghiên cứu, giải quyết.

Xem nội dung VB
II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU SẮP XẾP, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM TRƯỜNG QUỐC DOANH
...
B- Phương hướng, nhiệm vụ
...
2. Lâm trường
...
b) Những lâm trường đang quản lý chủ yếu là đất có rừng tự nhiên và diện tích đất được quy hoạch trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thì chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu (ban quản lý).
Biên chế của ban quản lý rừng tại điểm này được hướng dẫn bởi Thông tư 86/2005/TT-BNV có hiệu lực từ ngày 15/9/2005