Nghị quyết 161/NQ-CP năm 2020 về đẩy mạnh đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước do Chính phủ ban hành

Số hiệu 161/NQ-CP
Ngày ban hành 29/10/2020
Ngày có hiệu lực 29/10/2020
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Chính phủ
Người ký Nguyễn Xuân Phúc
Lĩnh vực Doanh nghiệp

CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 161/NQ-CP

Hà Nội, ngày 29 tháng 10 năm 2020

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ ĐẨY MẠNH ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,

QUYẾT NGHỊ:

Triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ngày 03 tháng 6 năm 2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Nghị quyết số 60/2018/QH14 ngày 15 tháng 6 năm 2018 của Quốc hội về tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa DNNN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 05 tháng 01 năm 2019 yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước đẩy mạnh cơ cấu lại, sắp xếp lại DNNN. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì nhiều hội nghị, cuộc họp, trực tiếp làm việc với nhiều bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, chỉ đạo kịp thời việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy công tác sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN...

Thời gian qua, mặc dù bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, tuy nhiên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt, khẩn trương, kịp thời ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị, chỉ đạo các Bộ, ngành khẩn trương, kịp thời ban hành quy định nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, trong đó có các DNNN nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ động đối phó với ảnh hưởng của dịch bệnh, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Với các chỉ đạo quyết liệt đó và nỗ lực của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, công tác sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích cực.

1. Một số kết quả đạt được

Các cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật về cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN tiếp tục được ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, đảm bảo chặt chẽ, công khai minh bạch, tối đa hóa lợi ích của Nhà nước, tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn và hạn chế thất thoát vốn, tài sản, nhà nước trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước. Nhiều Bộ, ngành địa phương đã nghiêm túc thực hiện đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt phương án cơ cấu lại, thực hiện tốt chế độ báo cáo, qua đó tiếp tục khẳng định cổ phần hóa, thoái vốn là giải pháp quan trọng trong sắp xếp, đổi mới, cơ cấu lại DNNN.

Lũy kế giai đoạn 2016 - tháng 6/2020, đã có 174 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 443.126 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 206.748 tỷ đồng, bằng 109% tổng giá trị phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa của cả giai đoạn đoạn 2011 - 2015 (trong đó có 36/128 doanh nghiệp thuộc kế hoạch cổ phần hóa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt); thực hiện thoái vốn 25.458 tỷ đồng, thu về 172.434 tỷ đồng, gấp 7 lần giá trị sổ sách. Tổng số tiền: thu từ cổ phần hóa, thoái vốn chuyển từ Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp vào Ngân sách nhà nước (NSNN) để đáp ứng nhu cầu của kế hoạch đầu tư công trung hạn theo Nghị quyết số 26/2016/QH14 ngày 10/11/2016 của Quốc hội từ năm 2016 đến 6/2020 là 211.500 tỷ đồng (đạt 85% kế hoạch).

Hiệu quả hoạt động của DNNN được cải thiện, thể hiện được vai trò chủ đạo trên một số lĩnh vực, tạo nguồn thu lớn cho Nhà nước. Đặc biệt, nhờ có vai trò chủ đạo của DNNN trong một số lĩnh vực đã góp phần vào công tác chỉ đạo, điều hành kinh tế vĩ mô được tốt hơn trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều biến động phức tạp trong thời gian vừa qua. Việc xử lý các dự án kém hiệu quả của ngành công thương đạt được nhiều kết quả khả quan, bảo đảm thực hiện theo đúng nguyên tắc của cơ chế thị trường; tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp; Nhà nước không cấp thêm vốn vào các dự án.

Một số Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước đã thực hiện cơ cấu lại theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đạt kết quả tốt, từng bước đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động trong bối cảnh tính cạnh tranh của thị trường ngày càng tăng. Các Ngân hàng thương mại nhà nước luôn đi đầu trong thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ về đảm bảo cung ứng vốn cho các dự án trọng điểm quốc gia, chương trình phát triển kinh tế - xã hội lớn của đất nước góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ; nằm trong danh sách các doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam.

Sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19 trong 06 tháng đầu năm 2020 đã ảnh hưởng nặng nề đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế. Các DNNN phải đối mặt với nhiều khó khăn như: thiếu hụt nguyên liệu đầu vào, thị trường đầu ra tiêu thụ hàng hóa và xuất khẩu bị giảm mạnh, chi phí sản xuất kinh doanh tăng, thiếu hụt dòng tiền, các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư bị ngưng trệ, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của năm 2020 và giai đoạn tiếp theo.

Với sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và sự nghiêm túc, quyết tâm cao độ, sự chủ động của các DNNN, đặc biệt là các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước trong việc thực hiện các giải pháp trọng tâm, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động an sinh xã hội, chung tay phòng chống dịch Covid-19. DNNN, các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phục hồi nền kinh tế, qua đó uy tín và vị thế của Việt nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đây là cơ hội để thế giới biết đến Việt Nam với lợi thế đặc biệt là “sự tin cậy chiến lược”, là điểm đến đầu tư an toàn và sẵn sàng đón nhận vốn chuyển dịch”.

2. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:

Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn thời gian qua còn chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra; việc phê duyệt phương án sử dụng đất, xác định giá trị doanh nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, giá trị văn hóa, lịch sử gặp khó khăn, vướng mắc; còn nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa tuân thủ quy định về đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán, qua đó chưa cải thiện thực chất công tác quản trị của doanh nghiệp.

Việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước về Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước; quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa; chấp hành chế độ báo cáo chưa được thực hiện nghiêm túc, quyết liệt tại một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước. Việc phê duyệt phương án cơ cấu lại DNNN thuộc thẩm quyền của các Bộ, ngành, địa phương; việc triển khai Đề án cơ cấu lại các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước đã được Thủ tướng phê duyệt chậm, đặc biệt là nội dung thoái vốn, cổ phần hóa.

Trong thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn phát sinh một số vướng mắc. Cơ chế phối hợp giữa Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp với các Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước còn bất cập, còn tâm lý ỷ lại, chưa vì lợi ích chung. Công tác đào tạo, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ còn chậm, chưa thu hút được người có năng lực, kinh nghiệm vào làm việc tại DNNN. Tốc độ tăng trưởng có tăng lên nhưng việc thu hút vốn vốn đầu tư phát triển mới thấp hơn doanh nghiệp ngoài nhà nước và các doanh nghiệp khu vực FDI.

Các Tập đoàn, Tổng công ty lớn chưa thực sự trở thành đầu tàu để phát triển hình thành các chuỗi giá trị, thúc đẩy tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước.

3. Nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế nêu trên, bên cạnh nguyên nhân từ tình hình phức tạp, căng thẳng trong các quan hệ kinh tế, chính trị trên thế giới và khu vực, còn có nguyên nhân:

Đối tượng cổ phần hóa trong thời gian qua bao gồm một số Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước quy mô lớn, tình hình tài chính phức tạp, sở hữu nhiều đất đai tại nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc định giá doanh nghiệp để cổ phần hóa phải đảm bảo tính đúng, tính đủ theo quy định, bao gồm toàn bộ diện tích đất của doanh nghiệp; một số quy định mới về cổ phần hóa, thoái vốn được ban hành theo hướng ngày càng chặt chẽ, công khai, minh bạch, tối đa lợi ích của Nhà nước, quy trình nhiều hơn nên thời gian thực hiện kéo dài hơn.

Việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước theo quy định tại Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg ngày 19 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ chưa được thực hiện nghiêm túc. Nhiều doanh nghiệp không chấp hành việc kê khai, báo cáo để thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất dẫn tới không có cơ sở để cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sử dụng đất khi thực hiện cổ phần hóa hoặc phê duyệt phương án sử dụng đất không phù hợp với quy định.

Một số quy định của pháp luật về cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Một số Bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước và DNNN chưa nghiêm túc, quyết liệt trong chỉ đạo và triển khai thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN; vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp còn chưa cao; còn tư tưởng không dám làm, không dám chịu trách nhiệm, ngại thay đổi, không muốn đổi mới vì lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ của ngành, lĩnh vực, thậm chí có trường hợp tham nhũng, che giấu sai phạm, cố tình làm chậm.

4. Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong thời gian tới

a) Đối với các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, DNNN:

- Khẩn trương nâng cao năng lực quản trị, năng lực cạnh tranh, chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống các chỉ số để theo dõi, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh theo các chuẩn mực quản trị hiện đại và thông lệ quốc tế.

[...]