Nghị quyết 110/NQ-HĐND năm 2018 về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 tỉnh Hòa Bình

Số hiệu 110/NQ-HĐND
Ngày ban hành 06/12/2018
Ngày có hiệu lực 06/12/2018
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Hòa Bình
Người ký Trần Đăng Ninh
Lĩnh vực Thương mại,Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH HÒA BÌNH

-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 110/NQ-HĐND

Hòa Bình, ngày 06 tháng 12 năm 2018

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2019 TỈNH HÒA BÌNH

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
KHÓA XVI, KỲ HỌP THỨ 7

Căn cứ Luật tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;

Căn cQuyết định số 917/QĐ-TTg ngày 11 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hòa Bình đến năm 2020;

Căn cứ Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 24 tháng 5 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2019;

Trên cơ sở Nghị quyết số 121/2015/NQ-HĐND ngày 03 tháng 12 năm 2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hòa Bình về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020;

Xét Tờ trình số 140/TTr-UBND ngày 05 tháng 11 năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019; Báo cáo thẩm tra của các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh; ý kiến thảo luận của đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Thống nhất đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2018, với các nội dung chủ yếu sau:

Năm 2018, trong bối cảnh kinh tế cả nước tiếp tục khởi sắc trên nhiều lĩnh vực, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, phát triển doanh nghiệp, thu hút khách quốc tế, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu đều đạt kết quả nổi bật; tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hòa Bình trong năm qua mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức cùng với diễn biến bất thường của thời tiết đã ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân. Với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân các dân tộc trong tỉnh, kinh tế - xã hội của tỉnh có chuyển biến tích cực: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước đạt 8,36%; GRDP bình quân đầu người đạt 50,7 triệu đồng; tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 3.400 tỷ đồng; trong năm có thêm 10 xã về đích nông thôn mới, nâng tổng số xã về đích nông thôn mới là 61 xã (chiếm 31,9% tng số xã), trung bình mỗi xã đạt 13 tiêu chí; đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 3,1% (còn khoảng 14,9%); tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 97,2%; văn hóa - xã hội có bước phát triển; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng được bảo đảm.

Tuy nhiên, hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn; đầu tư của các doanh nghiệp vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là sản xuất nông nghiệp công nghệ cao còn ít; việc dn đin, đi thửa, tích tụ ruộng đất tạo ra cánh đồng lớn để sản xuất tập trung còn hạn chế; công tác giải phóng mặt bằng dự án đầu tư ở một số địa phương còn nhiều vướng mắc; công tác quản lý đầu tư, xây dựng, đất đai chưa được cải thiện nhiều; môi trường đầu tư tuy được cải thiện nhưng chưa có nhiều chuyển biến. Tình trạng vi phạm pháp luật trong khai thác tài nguyên, khoáng sản còn xảy ra tại nhiều địa phương. Công tác an toàn thực phẩm một số địa phương còn hạn chế. Xuất khẩu lao động đạt thấp; công tác tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp gặp nhiều khó khăn. Công tác giáo dục, đào tạo còn hạn chế, để xảy ra sai phạm nghiêm trọng trong kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2018. Kết quả cải cách hành chính ở một số cơ quan, đơn vị vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Tình hình phạm tội hình sự còn diễn biến phức tạp; một số vụ việc khiếu kiện kéo dài, vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

Tình hình trên có nguyên nhân khách quan là do kinh tế thế giới tiếp tục ẩn chứa nhiều rủi ro, thách thức, tình hình biến đổi khí hậu, nhưng bên cạnh đó nguyên nhân chủ quan là những hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành của các cấp các ngành thiếu quyết liệt, chất lượng công vụ một số ngành, địa phương chưa cao có tác động không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2018.

Điều 2. Quyết định Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 với các nội dung như sau:

I. Mục tiêu tổng quát

Nâng cao chất lượng tăng trưởng, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đi đôi với tiếp tục ổn định kinh tế địa phương, bảo đảm tăng trưởng nhanh, bền vững. Tiếp tục tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh, quan tâm phát triển và hỗ trợ doanh nghiệp. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế và các ngành, lĩnh vực; tập trung phát triển công nghiệp và dịch vụ, du lịch, nâng cao chất lượng phát triển nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học và công nghệ, phát huy đổi mới, sáng tạo và đẩy mạnh khởi nghiệp. Thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, chủ động phòng chống thiên tai. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng công vụ; tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và giải quyết hiệu quả khiếu nại, tố cáo. Mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.

II. Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu

1. Về các chỉ tiêu kinh tế

1.1. Tăng trưởng kinh tế là 9,5%; trong đó: Nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 4,5%; công nghiệp - xây dựng tăng 13,28%; dịch vụ tăng 7,9%.

1.2. Cơ cấu kinh tế: khu vực nông nghiệp chiếm 20,64%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 50,02%; khu vực dịch vụ chiếm 29,34%.

1.3. GRDP bình quân đầu người 55,01 triệu đồng.

1.4. Tổng đầu tư toàn xã hội 16.435 tỷ đồng.

1.5. Tổng thu ngân sách nhà nước đạt 3.810 tỷ đồng.

1.6. Giá trxuất khẩu đạt 790 triệu USD; giá trnhập khẩu đạt 635 triệu USD.

1.7. Số doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký thành lập mới 535 doanh nghiệp, hợp tác xã (trong đó, có 500 doanh nghiệp và 35 hợp tác xã).

1.8. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân cả năm tăng dưới 5%.

1.9. Tỷ lệ đô thị hoá đạt 23,01%.

1.10. Có thêm 10 xã về đích nông thôn mới; số tiêu chí nông thôn mới trung bình trên 1 xã tăng 1 tiêu chí (đến hết năm 2019 trung bình 1 xã đạt 14 tiêu chí); không còn xã nào đạt dưới 9 tiêu chí.

[...]