Nghị quyết 102/2007/NQ-HĐND về mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh năm 2008 do tỉnh Điện Biên ban hành

Số hiệu 102/2007/NQ-HĐND
Ngày ban hành 10/12/2007
Ngày có hiệu lực 17/12/2007
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Tỉnh Điện Biên
Người ký Mùa A Sơn
Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
---------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 102/2007/NQ-HĐND

Điện Biên Phủ, ngày 10 tháng 12 năm 2007

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, ĐẢM BẢO QUỐC PHÒNG - AN NINH NĂM 2008

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
KHÓA XII, KỲ HỌP THỨ 12

Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND-UBND số 31/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm 2004;

Sau khi xem xét Báo cáo số: 114/BC-UBND ngày 30/11/2007 của UBND tỉnh về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2007; mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008; Báo cáo thẩm tra số: 157/BC- KTNS ngày 04/12/2007 của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND tỉnh và ý kiến của Đại biểu HĐND tỉnh,

QUYẾT NGHỊ:

Điều 1. Nhất trí nội dung đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2007; mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh năm 2008 do UBND tỉnh trình tại kỳ họp; Hội đồng nhân dân tỉnh nhấn mạnh một số vấn đề sau:

I. Về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2007.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng với sự nỗ lực, cố gắng của các ngành, các cấp, các lĩnh vực kinh tế - xã hội của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực. Kinh tế tiếp tục phát triển ổn định và đạt được tốc độ tăng trưởng khá. Dự ước tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2007 đạt 10,86%, trong đó: Nông lâm nghiệp tăng 5,6%, Công nghiệp - xây dựng tăng 8,7%, Dịch vụ tăng 16,24%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng xác định, năm 2007, nông lâm nghiệp chiếm 36,37%, giảm 0,07%; Công nghiệp - Xây dựng chiếm 24,74%, giảm 0,61%; Dịch vụ 38,89%, tăng 0,68% so với năm 2006.

1. Về phát triển kinh tế:

- Do bị ảnh hưởng của hạn hán kéo dài nên nhiều chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp không đạt kế hoạch đề ra nhưng vẫn tăng khá so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng lương thực năm 2007 ước đạt 187.864 tấn, đạt 97,7% kế hoạch, tăng 1,2% so với năm 2006. Cây Đậu tương trồng được 9.138 ha, tăng 268 ha so với năm 2006, đạt 83,1% kế hoạch, sản lượng thu hoạch ước đạt 10.950 tấn, tăng 2,2% so với năm 2006. Các loại cây công nghiệp dài ngày như chè, cà phê tiếp tục được duy trì diện tích hiện có, trồng mới 90 ha cà phê, 7 ha chè, hoàn thiện quy hoạch vùng chè cây cao Tủa Chùa để đầu tư phát triển trong những năm tiếp theo.

Trong chăn nuôi đã phòng chống có hiệu quả dịch bệnh lở mồm long móng ở gia súc và dịch cúm gia cầm; tốc độ tăng trưởng đàn gia súc bình quân đạt 5,6%, đàn gia cầm tăng 26% so với năm 2006. Nuôi trồng thủy sản tăng cả về diện tích và sản lượng đánh bắt.

- Sản xuất công nghiệp ổn định và có bước tăng trưởng so với năm trước. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn năm 2007 ước đạt 350 tỷ đồng (giá so sánh 1994), tăng 12,51% so với năm 2006. Đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đăng ký đầu tư vào các lĩnh vực xây dựng thủy điện, khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông sản ....

- Thương mại, dịch vụ tiếp tục phát triển, đảm bảo cung ứng đủ hàng hóa, vật tư cho nhu cầu sản xuất, tiêu dùng. Dự ước tổng mức lưu chuyển bán lẻ hàng hoá và dịch vụ năm 2007 đạt 1.440 tỷ đồng, tăng 24% so với năm 2006 và đạt 102,8% kế hoạch. Chất lượng hoạt động dịch vụ du lịch, vận tải, bưu chính viễn thông từng bước được nâng lên, lượng khách du lịch đến tỉnh tăng 37,5%, doanh thu xã hội từ hoạt động du lịch tăng 20% so với năm 2006.

- Thu ngân sách trên địa bàn có nhiều cố gắng, thu ngân sách địa phương dự ước đạt 1.939,9 tỷ đồng đạt 140,7% dự toán, tăng 27,4% so với năm 2006. Trong đó tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 154,2 tỷ đồng đạt 109,7% dự toán (kể cả thu vay đầu tư). Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội ước huy động đạt 2.002 tỷ đồng, tăng 7,6% so với kế hoạch, đã tăng cường đáng kể hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động Tài chính, Kho bạc, Ngân hàng đã đáp ứng nhu cầu tiền mặt cho sản xuất, đời sống.

2. Lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực:

- Thực hiện tốt kế hoạch đổi mới giáo dục phổ thông; từng bước nâng cao hiệu quả xã hội hoá giáo dục, giáo dục phổ thông có chuyển biến thực chất. Công tác phổ cập giáo dục tiểu học đúng tuổi, phổ cập THCS được quan tâm chỉ đạo, trong năm đã công nhận thêm 29 xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng tuổi và 16 xã đạt chuẩn phổ cập THCS, nâng tổng số xã, phường đạt chuẩn phổ cập THCS lên 72 xã, đạt 100% KH. Mở rộng liên kết đào tạo chuyên nghiệp, dạy nghề góp phần từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; làm tốt công tác đào tạo giúp các tỉnh Bắc Lào theo biên bản Hội đàm đã ký kết.

- Công tác phòng chống dịch bệnh được tăng cường kiểm soát không để dịch lớn xảy ra. Hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân được đảm bảo; tổ chức thực hiện có hiệu quả các mục tiêu chương trình y tế quốc gia, thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh cho người nghèo và trẻ em dưới 6 tuổi.

- Triển khai có hiệu quả chiến dịch chăm sóc sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình, giảm tỷ lệ sinh 1‰, đạt 100% kế hoạch. Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm, 91% trẻ em dưới 6 tuổi đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế; phối hợp với các tổ chức làm tốt công tác chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

- Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin tuyên truyền được tổ chức sôi nổi chào mừng các ngày lễ lớn. Phong trào xây dựng đời sống văn hoá được đông đảo nhân dân tích cực hưởng ứng; trong năm đã có 568/800 thôn bản tổ dân phố và 52.650/58.500 hộ gia đình đăng ký được công nhận đạt tiêu chuẩn văn hóa. Hoạt động Thể dục thể thao có nhiều chuyển biến tích cực, thể thao thành tích cao được quan tâm đầu tư, toàn tỉnh đã có 16% dân số tham gia hoạt động thể dục thể thao thường xuyên.

- Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm được tích cực triển khai thực hiện; trong năm đã giải quyết việc làm mới cho 7.000 lao động đạt 100 % kế hoạch, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước, có 3.263 hộ thoát nghèo (4,68%) đưa tỷ lệ đói nghèo toàn tỉnh giảm từ 38,77% năm 2006, xuống còn 33,91% năm 2007.

3. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, chủ quyền lãnh thổ quốc gia được giữ vững; đã chủ động nắm chắc tình hình không để tình huống đột xuất xấu, bất ngờ xẩy ra trên địa bàn tỉnh; hoạt động đối ngoại tiếp tục được tăng cường, mở rộng.

4. Tổ chức bộ máy chính quyền các cấp tiếp tục được củng cố kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên; công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức được quan tâm; giải quyết kịp thời đơn thư đề nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, không để tồn đọng kéo dài làm phát sinh điểm nóng.

Những kết quả đạt được nêu trên là rất cơ bản, là tiền đề quan trọng để tỉnh ta triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh năm 2008 và giai đoạn 2006 - 2010. Song bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH, đảm bảo quốc phòng an ninh năm 2007 còn có những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, đó là:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra; tăng trưởng còn thiếu tính bền vững còn phụ thuộc nhiều vào đầu tư của Trung ương. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và thiếu vững chắc, chưa tạo được sự gắn kết giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư.

- Chỉ tiêu sản xuất lương thực dưới ruộng, cây công nghiệp đều không đạt kế hoạch. Việc triển khai cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được xác định trong chương trình, đề án về phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp tập trung còn chậm và chưa rõ, chưa tạo thành vùng sản xuất tập trung. Chỉ tiêu trồng rừng đạt thấp, hiệu quả trồng rừng chưa cao; tình trạng cháy rừng, phá rừng làm nương vẫn còn diễn ra khá lớn.

- Sản xuất công nghiệp tăng trưởng chậm, chưa tương xứng với tiềm năng; tiến độ thực hiện các dự án xi măng, thủy điện, khai thác khoáng sản còn chậm. Tiến độ triển khai thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư chậm nhất là nguồn vốn các chương trình mục tiêu và nguồn trái phiếu Chính phủ. Công tác chuẩn bị đầu tư còn chưa tích cực, chất lượng hồ sơ dự án chưa cao; năng lực quản lý và tổ chức thực hiện dự án của các Chủ đầu tư, các đơn vị tư vấn còn hạn chế; công tác đền bù giải phóng mặt bằng chậm và nhiều vướng mắc, tiến độ chậm.

[...]