Luật Công đoàn 1957

Số hiệu 108-SL/L.10
Ngày ban hành 05/11/1957
Ngày có hiệu lực 20/11/1957
Loại văn bản Luật
Cơ quan ban hành Quốc hội
Người ký Phạm Văn Đồng
Lĩnh vực Lao động - Tiền lương,Quyền dân sự

QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 108-SL/L.10

Hà Nội, ngày 05 tháng 11 năm 1957

 

LUẬT

CÔNG ĐOÀN SỐ 108-SL/L10 NGÀY 5 THÁNG 11 NĂM 1957 CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

RA SẮC LỆNH:

Nay ban bố luật Công đoàn đã được Quốc hội biểu quyết trong khoá họp thứ 7; nguyên văn như sau:

LUẬT

CÔNG ĐOÀN

Để định rõ vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức Công đoàn trong chế độ dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp công nhân phát triển và củng cố tổ chức, phát huy tác dụng tích cực của Công đoàn trong công cuộc xây dựng chính quyền, kiến thiết kinh tế, phát triển văn hoá, nhằm củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà và xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

Nay ra luật Công đoàn như sau:

Chương 1:

ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 1.

Công đoàn là tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân tự nguyện lập ra. Tất cả những người lao động chân tay và lao động trí óc làm công ăn lương, đều có quyền gia nhập Công đoàn.

Điều 2.

Công đoàn tổ chức theo đúng những nguyên tắc của điều lệ Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.

Điều 3.

Mỗi tổ chức Công đoàn, khi thành lập phải báo cáo lên Công đoàn cấp trên công nhận và báo cho Uỷ ban Hành chính cấp tương đương biết.

Chương 2:

NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN LỢI CỦA CÔNG ĐOÀN

Điều 4.

Để củng cố và phát triển thắng lợi của cách mạng, bảo vệ quyền lợi căn bản của giai cấp công nhân, các cấp công đoàn phải thực hiện những nhiệm vụ mà Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đã đề ra:

a) Tổ chức, giáo dục, đoàn kết thống nhất lực lượng lao động chân tay và lao động trí óc, làm trụ cột của chính quyền dân chủ nhân dân và Mặt trận dân tộc thống nhất; tích cực và gương mẫu thực hiện những chính sách và pháp luật của Nhà nước.

b) Tổ chức, giáo dục lao động chân tay và lao động trí óc phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần chủ nhân đất nước, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xí nghiệp, tôn trọng kỷ luật lao động, triệt để thực hiện chế độ bảo vệ an toàn lao động, đẩy mạnh thi đua sản xuất và thực hành tiết kiệm, không ngừng nâng cao hiệu suất lao động, quý trọng của công, đấu tranh chống quan liêu, lãng phí, tham ô, bảo vệ xí nghiệp và cơ quan, chống mọi hoạt động phá hoại, nhằm bảo đảm hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước.

c) Bảo vệ quyền lợi của lao động, tổ chức cải thiện sinh hoạt và thi hành mọi biện pháp nhằm nâng cao dần dần đời sống vật chất và văn hoá của công nhân, viên chức trên cơ sở phát triển sản xuất.

d) Đoàn kết nhất trí với anh chị em lao động và đồng bào miền Nam, đấu tranh bảo vệ quyền lợi hàng ngày và các quyền tự do dân chủ, đòi lập lại quan hệ bình thường Bắc Nam thực hiện thống nhất nước nhà.

đ) Nâng cao tinh thần quốc tế vô sản kết hợp với tinh thần yêu nước chân chính, đoàn kết thống nhất với lực lượng lao động thế giới, đấu tranh cho quyền lợi của lao động, cho tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân các nước, cho độc lập dân tộc và hoà bình thế giới.

Điều 5.

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, các Liên hiệp Công đoàn, Công đoàn ngành dọc và các Công đoàn cơ sở có quyền thay mặt cho công nhân, viên chức tham gia những cuộc hội nghị của các cơ quan chính quyền cùng cấp để bàn về việc xây dựng và thực hiện kế hoạch Nhà nước, bàn về các chính sách có liên quan đến nhiệm vụ, quyền lợi của công nhân viên chức.

[...]