Kế hoạch 335/KH-TANDTC tiếp tục triển khai cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành Tòa án nhân dân với chủ đề: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” do Tòa án nhân dân tối cao ban hành
Số hiệu | 335/KH-TANDTC |
Ngày ban hành | 29/12/2011 |
Ngày có hiệu lực | 29/12/2011 |
Loại văn bản | Kế hoạch |
Cơ quan ban hành | Tòa án nhân dân tối cao |
Người ký | Trần Văn Tú |
Lĩnh vực | Văn hóa - Xã hội |
TÒA
ÁN NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 335/KH-TANDTC |
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 2011 |
Căn cứ Kế hoạch số 03-KH/TW, ngày 01-7-2011 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đảy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2015 và căn cứ vào Nghị quyết của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao về việc lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2012 của ngành Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao xây dựng Kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong ngành Tòa án nhân dân với chủ đề: “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” như sau:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân là một mục tiêu được đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011- 2020, đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua; đồng thời việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp là một yêu cầu quan trọng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thời gian qua, với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo nghị quyết của Đảng, Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó yêu cầu đối với công tác cán bộ là: “Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh”, “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phảm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ” và “Đào tạo đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực”…, ngành Tòa án nhân dân đã rất chú trọng việc kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán, do đó đội ngũ cán bộ, Thẩm phán ngành Tòa án nhân dân đã không ngừng được tăng cường về số lượng và nâng cao về chất lượng.
So với thời điểm năm 2002, khi Tòa án nhân dân tối cao bắt đầu thực hiện việc quản lý các Tòa án địa phương về tổ chức theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, từ chỗ đội ngũ cán bộ Tòa án còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, đến nay đội ngũ cán bộ, Thẩm phán của toàn ngành tăng 3.205 người, trong đó Thẩm phán tăng 1.253 người. Hiện nay, biên chế toàn ngành là 12.520 người; trong đó, Tòa án nhân dân tối cao có 651 người (104 Thẩm phán), Tòa án nhân dân cấp tỉnh có 3.537 người (1.072 Thẩm phán) và Tòa án nhân dân cấp huyện có 8.332 người (3.616 Thẩm phán). Không chỉ tăng về số lượng mà trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán cũng không ngừng được nâng lên. Cho đến nay, 100% Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp đều có trình độ cử nhân luật trở lên; 100% Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, 75% Thẩm phán trung cấp và 35% Thẩm phán sơ cấp có trình độ cử nhân hoặc cao cấp lý luận chính trị; 100% Thẩm phán các cấp là Đảng viên. Trong kỳ Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh và cấp huyện năm 2010, ngành Tòa án nhân dân có 46 người là đại diện lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp tỉnh được bầu và trúng cử Ban chấp hành đảng bộ cấp tỉnh và trên 400 người là đại diện lãnh đạo Tòa án nhân dân cấp huyện được bầu và trúng cử Ban chấp hành đảng bộ cấp huyện .
Nhìn chung công tác tổ chức cán bộ của ngành Tòa án nhân dân trong các năm qua đã đạt được những thành tích đáng kể, tổ chức bộ máy Tòa án nhân dân các cấp được kiện toàn, đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án từng bước được bổ sung và nâng cao về chất lượng. Từ những chuyển biến tích cực này đã góp phần nâng cao chất lượng xét xử các loại vụ án, tỷ lệ án bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán có xu hướng giảm hàng năm, các hoạt động khác của ngành Tòa án nhân dân đảm bảo hiệu quả thiết thực; tạo tiền đề quan trọng để ngành Tòa án nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, công tác xây dựng ngành trong đó trọng tâm là công tác tổ chức cán bộ trong thời gian qua cho thấy, vẫn còn một số cán bộ, Thẩm phán hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có Thẩm phán trong công tác xét xử tỷ lệ án hủy cao hoặc áp dụng án treo không đúng, Tòa án nhân dân tối cao đã yêu cầu kiểm điểm, rút kinh nghiệm và áp dụng các biện pháp xử lý. Cá biệt vẫn còn Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án vi phạm kỷ luật, thậm chí vi phạm pháp luật và bị truy cứu trách nhiệm hình sự (năm 2009, toàn ngành có 22 cán bộ vi phạm bị xử lý kỷ luật và 04 người bị truy cứu trách nhiệm hình sự; năm 2010, có 25 cán bộ vi phạm bị xử lý kỷ luật và 05 người bị truy cứu trách nhiệm hình sự; năm 2011, có 26 cán bộ vi phạm bị xử lý kỷ luật và 05 người bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Các vi phạm xảy ra ở nhiều dạng như: Vi phạm chế độ kỷ luật, nội quy cơ quan; vi phạm chế độ quản lý và sử dụng kinh phí; vi phạm chế độ công tác nghiệp vụ, nhận hối lộ, cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án, ra bản án trái pháp luật, làm mất tang vật vụ án... Hàng năm, Tòa án nhân dân tối cao nhận được hàng chục đơn thư tố cáo của công dân, của đương sự tố cáo Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án có những sai phạm như xét xử không khách quan nhằm trục lợi, nhận tài sản của đương sự, lợi dụng việc xét xử để mua bán đất đai hưởng lợi… Đối với các đơn thư này, Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo các cơ quan chức năng kiểm tra, xác minh, kết luận từng nội dung tố cáo. Thông qua kiểm tra, kết luận thì thấy tuy có những nội dung tố cáo chưa có đủ cơ sở kết luận, nhưng việc tố cáo của công dân và đương sự đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của ngành, là những hiện tượng không bình thường, là cảnh báo cho Thẩm phán, cán bộ, công chức của ngành khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, báo chí đã phản ánh một số trường hợp Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án có lối sống không lành mạnh, vi phạm phẩm chất đạo đức, như các vụ việc xảy ra tại một số Tòa án nhân dân địa phương. Thông qua việc kiểm tra, xác minh, xử lý của các Đoàn kiểm tra ở các Tòa án nhân dân địa phương có vi phạm nêu trên cho thấy những nội dung mà báo chí phản ánh là có cơ sở hiện tượng của sự việc. Tòa án nhân dân tối cao đang chỉ đạo các địa phương có cán bộ vi phạm xử lý nghiêm theo thẩm quyền và đề nghị các cấp có thẩm quyền kỷ luật về Đảng và chính quyền, tùy theo mức độ vi phạm của họ. Mặc dù số Thẩm phán, cán bộ Tòa án có hành vi vi phạm không nhiều, nhưng đã ảnh hưởng tới uy tín của ngành và lòng tin của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng.
Đối với nguyên nhân của tình hình cán bộ Tòa án, Thẩm phán vi phạm đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật nêu trên, thì nguyên nhân chủ quan là chính. Mặc dù tình hình kinh tế của từng địa phương cũng như cả nước còn nhiều khó khăn, nhưng các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và nhà nước ta luôn quan tâm đãi ngộ, ưu đãi đối với ngành Tòa án nhân dân. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có quyết tâm chính trị rất cao về đấu tranh phòng chống tham nhũng. Ngành Tòa án nhân dân cũng đã có những giải pháp cụ thể về phòng chống tham nhũng trong nội bộ ngành. Trách nhiệm để xảy ra các sai phạm của Thẩm phán, cán bộ Tòa án trước hết là trách nhiệm cá nhân của họ và trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, Thẩm phán có vi phạm. Các nguyên nhân chủ quan dẫn đến các sai phạm là:
Thứ nhất: các Thẩm phán, cán bộ, công chức có vi phạm nêu trên do mang nặng chủ nghĩa cá nhân; thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lỗi sống; chưa ý thức rõ trách nhiệm, đạo đức, tác phong của người cán bộ Tòa án; có lối sống buông thả, thực dụng, cơ hội; chưa thực hiện nghiêm túc quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân. Xuất phát từ động cơ vụ lợi, các hành vi vi phạm của họ mặc dù đã bị xử lý nghiêm minh, nhưng cũng là những bài học sâu sắc cho cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân.
Thứ hai: Các Tòa án nhân dân địa phương để xảy ra các vi phạm đó là do lãnh đạo đơn vị chưa nhận thức đúng đắn và chấp hành tốt sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương trong việc giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, Thẩm phán; trình độ quản lý còn hạn chế, chưa sâu sát trong công tác quản lý cán bộ, thiếu những hình thức, biện pháp thích hợp để quản lý, kiểm tra việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, Thẩm phán nên chưa kịp thời phát hiện để uốn nắn ngay từ đầu đối với những biểu hiện sai trái của Thẩm phán, cán bộ, công chức để phòng ngừa vi phạm. Chưa làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ; nhất là áp dụng các biện pháp về phòng chống tham nhũng nên việc phòng ngừa chưa cao.
Thứ ba: Các sai phạm của Thẩm phán, cán bộ Tòa án có vi phạm trong thời gian vừa qua cũng có nguyên nhân là do hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Cán bộ, Thẩm phán này chưa có ý thức tự học hỏi, trau dồi trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật các kiến thức mới liên quan tới lĩnh vực công việc của mình. Mặt khác, mặc dù đã có những chuyển biến nhất định, nhưng công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn vụ cho cán bộ, Thẩm phán trong toàn ngành nói chung và ở các Tòa án địa phương nói riêng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đề ra; một số Tòa án địa phương chưa quan tâm làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thuộc quyền quản lý.
Xuất phát từ kết quả thành tích của công tác kiện toàn tổ chức xây dựng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân, và các hạn chế của công tác này trong thời gian qua, đồng thời. nhằm từng bước đẩy lùi, ngăn chặn, tiến tới xóa bỏ các vi phạm, sai phạm trong đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân và để thực hiện các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng Đảng, đặc biệt để tích cực và nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay; Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết về cuộc vận động với chủ đề “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” trong năm 2012 và những năm tiếp theo.
II. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA CUỘC VẬN ĐỘNG
Thực hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” nhằm từng bước xây dựng kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng với mục tiêu xây dựng ngành Tòa án nhân dân trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức; đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án phải “Phục vụ nhân dân”, “Phụng sự Tổ quốc”, “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” để củng cố lòng tin của xã hội, của nhân dân đối với ngành Tòa án nhân dân.
- Phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế của công tác xây dựng ngành trong những năm vừa qua, để công tác xây dựng ngành nói chung, việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân nói riêng có chiều sâu, đạt hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác xét xử các loại vụ án thuộc thẩm quyền của ngành Tòa án nhân dân.
- Lãnh đạo, chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao đối với các đơn vị trong ngành thực hiện cuộc vận động này phải đồng bộ, cụ thể và có sự phối hợp chặt chẽ với các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương, để gắn với chủ trương tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của từng địa phương.
- Các đơn vị trong ngành Tòa án nhân dân thực hiện nghiêm túc theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, của cấp ủy địa phương về việc tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; đồng thời phát huy tính sáng tạo, chủ động của từng đơn vị để vận dụng phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện, nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị.
a. Nhóm giải pháp về chính trị tư tưởng
- Các đơn vị trong ngành Tòa án nhân dân phải thường xuyên thực hiện nghiêm túc công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho Thẩm phán, cán bộ, công chức trong đơn vị mình; nâng cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch khi quán triệt, triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội liên quan đến cải cách tư pháp, tổ chức, hoạt động của ngành Tòa án nhân dân và công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nhằm đảm bảo cho Thẩm phán, cán bộ, công chức trong đơn vị thống nhất cao về nhận thức, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, từ đó thực hiện tốt cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân”.
- Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan ở trung ương, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong công tác quản lý, giáo dục cán bộ, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của ngành Tòa án nhân dân. Nội dung về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống mà Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu, tự giác; không quan liêu tham nhũng, lãng phí; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Để từng bước cụ thể hóa các nội dung tu dưỡng, rèn luyện đó, các đơn vị phải thực hiện việc công khai, minh bạch các hoạt động của Toà án theo quy định của pháp luật; thực hiện “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” theo đúng quy định của Luật phòng, chống tham nhũng; định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức không giữ chức vụ lãnh đạo theo đúng quy định của Chính phủ; triển khai và thực hiện nghiêm túc Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật phòng, chống tham nhũng và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” với phương châm “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” gắn với giai đoạn 2 của cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn ngành Toà án nhân dân; tiêu chí hóa lời dạy của Bác Hồ đối với cán bộ Tòa án. Trong phong trào thi đua này lấy cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân” là trọng tâm, với mục tiêu, nội dung là:
+ 100% Thẩm phán, cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân có cam kết và thực hiện đúng cam kết về việc thực hiện đúng "Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân”, không vi phạm phẩm chất chính trị, đạo đức lỗi sống, không vi phạm kỷ luật và pháp luật.
+ 100% gia đình Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án đạt danh hiệu gia đình văn hóa mới ở nơi cư trú.