Chủ nhật, Ngày 27/10/2024

Kế hoạch 1522/KH-UBND năm 2023 thực hiện Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh tật trước sinh và sơ sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030

Số hiệu 1522/KH-UBND
Ngày ban hành 17/04/2023
Ngày có hiệu lực 17/04/2023
Loại văn bản Kế hoạch
Cơ quan ban hành Thành phố Hồ Chí Minh
Người ký Dương Anh Đức
Lĩnh vực Thể thao - Y tế

ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 1522/KH-UBND

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 4 năm 2023

 

KẾ HOẠCH

THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH MỞ RỘNG TẦM SOÁT, CHẨN ĐOÁN, ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH TẬT TRƯỚC SINH VÀ SƠ SINH TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2030

Căn cứ Quyết định số 1999/QĐ-TTg ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình mở rộng, tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030;

Căn cứ Quyết định số 2539/QĐ-BYT ngày 24 tháng 5 năm 2021 của Bộ Y tế về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Chương trình mở rộng, tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030;

Căn cứ Công văn số 7375/BYT-TCDS ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Bộ Y tế về việc triển khai thực hiện Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030.

Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh tật trước sinh và sơ sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030, nội dung cụ thể như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT

Chất lượng dân số là phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới nêu rõ “Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số”“Phát triển mạng lưới cung cấp các dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh tật trước sinh, sơ sinh”. Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 nhấn mạnh “Nhân rộng các mô hình có hiệu quả, tập trung đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm, từng bước mở rộng và tiến tới phổ cập việc cung cấp dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn, bao gồm giảm tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Đặc biệt chú trọng triển khai cung cấp dịch vụ phát hiện sớm nguy cơ, phòng ngừa di truyền các bệnh nguy hiểm ở thai nhi và trẻ em”.

Tầm soát, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh để phát hiện, can thiệp và điều trị sớm các bệnh, tật, các rối loạn chuyển hóa, di truyền ngay trong giai đoạn bào thai và sơ sinh giúp cho trẻ sinh ra phát triển bình thường hoặc tránh được những hậu quả nặng nề về thể chất và trí tuệ, giảm thiểu số người tàn tật, thiểu năng trí tuệ trong cộng đồng, góp phần nâng cao chất lượng dân số.

Tại Việt Nam, Chương trình tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh được triển khai thí điểm từ năm 2007 đến năm 2013. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh và mô hình tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đã được triển khai từ năm 2011. Trong giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ bà mẹ đang mang thai được sàng lọc trước sinh và tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc đều đạt và vượt so với chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Năm 2022, số liệu ghi nhận, tỷ lệ bà mẹ mang thai được sàng lọc trước sinh đạt 86,3%, tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc đạt 83,4%. Đạt và vượt chỉ tiêu 90% thanh niên nam, nữ chuẩn bị kết hôn tham gia tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân.

Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình triển khai hoạt động vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức như: một số cơ sở y tế tuyến quận, huyện chưa có bác sĩ sản phụ khoa để thực hiện kỹ thuật sàng lọc trước sinh, công tác quản lý, theo dõi, điều trị các đối tượng nghi ngờ, chẩn đoán xác định bệnh còn gặp khó khăn và chưa có quy trình chuẩn về công tác này.

Do vậy, việc xây dựng Kế hoạch thực hiện Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh tại Thành phố đến năm 2030 là cần thiết.

II. CĂN CỨ XÂY DỰNG

1. Căn cứ pháp lý

- Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22 tháng 11 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030.

- Quyết định số 1999/QĐ-TTg ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình mở rộng, tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030.

- Quyết định số 1807/QĐ-BYT ngày 21 tháng 4 năm 2020 của Bộ Y tế về việc ban hành hướng dẫn về chuyên môn kỹ thuật trong sàng lọc, chẩn đoán, điều trị trước sinh và sơ sinh.

- Quyết định số 2539/QĐ-BYT ngày 24 tháng 5 năm 2021 của Bộ Y tế về việc ban hành Kế hoạch hành động thực hiện chương trình mở rộng, tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030.

- Công văn số 7375/BYT-TCDS ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình về việc triển khai thực hiện Chương trình mở rộng tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh đến năm 2030.

- Kế hoạch số 2347/KH-UBND ngày 15 tháng 7 năm 2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố về Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030 tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2021-2025.

2. Cơ sở thực tiễn

Hoạt động tầm soát, chẩn đoán trước sinh, sơ sinh và mô hình tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn tại Thành phố Hồ Chí Minh được triển khai năm 2011, được thực hiện và duy trì ở các đơn vị y tế cấp Thành phố, quận, huyện, phường, xã, thị trấn. Thông qua công tác tuyên truyền, vận động đã nâng cao nhận thức cho cộng đồng về ý nghĩa, tác dụng của hoạt động này và thu hút sự tham gia tích cực của Nhân dân, đặc biệt là phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tham gia thực hiện phát hiện sớm, hạn chế tình trạng dị tật ở thai nhi và trẻ sơ sinh, góp phần nâng cao thể chất, trí tuệ của trẻ em, nâng cao chất lượng dân số.

Hàng năm, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình phối hợp với Khoa Chăm sóc trước sinh và Khoa Xét nghiệm Di truyền Y học (Bệnh viện Từ Dũ) đào tạo bác sĩ, cử nhân hộ sinh về kỹ thuật tư vấn và sàng lọc trước sinh cho các Bệnh viện, Khoa sức khỏe sinh sản, các Trung tâm Y tế. Đào tạo về kỹ năng tư vấn về sàng lọc trước sinh và sơ sinh; kỹ thuật lấy máu gót chân sàng lọc sơ sinh; kỹ thuật lấy giọt máu khô xét nghiệm sàng lọc trước sinh cho nhân viên y tế; kỹ thuật sàng lọc không xâm lấn; tổ chức lớp nâng cao kiến thức cho người dân về lợi ích của sàng lọc trước sinh và sơ sinh. Ngoài các cơ sở y tế công lập triển khai hoạt động này còn có đóng góp của bệnh viện, phòng khám tư nhân ...trong tầm soát, chẩn đoán, điều trị một số bệnh, tật trước sinh và sơ sinh.

Trong giai đoạn 2016 - 2020 đã thực hiện sàng lọc trước sinh cho 283.488 bà mẹ mang thai, số trường hợp được chẩn đoán xác định bệnh sớm ngay trong giai đoạn bào thai là 11.753 chiếm tỷ lệ 4,15%. Trong đó, có 732 trường hợp mắc hội chứng Down, 743 dị tật ống thần kinh, 274 bất thường nhiễm sắc thể khác và 10.004 trường hợp mắc các dị tật khác. Thực hiện lấy máu gót chân trong vòng 48 giờ sau sinh để thực hiện các xét nghiệm sàng lọc sơ sinh cho 267.160 trẻ, số trường hợp được chẩn đoán xác định mắc bệnh là 1.612 trường hợp chiếm tỷ lệ 0,44 %. Trong đó, có 63 trường hợp suy giáp bẩm sinh, 1.382 trường hợp thiếu men G6PD, 50 trường hợp tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh và 117 trường hợp bất thường khác. Tất cả các trường hợp nghi ngờ bất thường đều được tư vấn, hướng dẫn quy trình để tiến hành chẩn đoán xác định và điều trị phù hợp. Hoạt động can thiệp, tác động vào quá trình phát hiện và điều trị sớm các bệnh, tật, các rối loạn chuyển hóa, di truyền ngay trong giai đoạn bào thai và sơ sinh; giúp trẻ sinh ra bình thường hoặc tránh được những hậu quả nặng nề về thể chất và trí tuệ, giảm số người tàn tật, thiểu năng trí tuệ trong cộng đồng.

Các hoạt động chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên luôn được quan tâm chú ý, nội dung này còn hướng đến việc chăm sóc sức khỏe trước khi kết hôn cho vị thành niên, thanh niên nhằm các mục đích hết sức thiết thực và to lớn hơn, đó là chuẩn bị tâm, sinh lý để xây dựng một gia đình hạnh phúc cả về thể chất lẫn tinh thần, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người trong xã hội. Hàng năm, Thành phố luôn phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu về khám sức khỏe trước khi kết hôn bằng hình thức xã hội hóa cho các phường, xã, thị trấn trên địa bàn Thành phố. Đây là chỉ tiêu đặc thù của Thành phố, trung bình hàng năm vận động hơn 700 cặp nam, nữ thanh niên chuẩn bị kết hôn tự nguyện tham gia khám sức khỏe trước khi kết hôn diện xã hội hóa.

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng còn nhiều tồn tại, hạn chế, cụ thể như: ngoài các nhóm đối tượng thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo được ngân sách Thành phố hỗ trợ, còn một bộ phận người dân có mức thu nhập thấp và trung bình chưa sẵn sàng tham gia chương trình sàng lọc trước sinh và sơ sinh do giá một số dịch vụ còn khá cao so với khả năng tự chi trả của người dân; công tác theo dõi, tư vấn, điều trị các trường hợp có bệnh còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập như danh sách các ca bệnh chưa được phối hợp quản lý chặt chẽ, việc cập nhật chia sẻ thông tin giữa các tuyến Thành phố, huyện, xã còn chậm, còn tình trạng để mất dấu các ca bệnh....; nhận thức về tầm quan trọng của việc khám sức khỏe trước khi kết hôn của một số nam, nữ thanh niên vẫn còn hạn chế.

III. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung

[...]