Thứ 6, Ngày 25/10/2024

Hướng dẫn 15/HD-VKSTC năm 2024 xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát khi bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa và kháng nghị của Viện kiểm sát không được Tòa án chấp nhận trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành

Số hiệu 15/HD-VKSTC
Ngày ban hành 27/06/2024
Ngày có hiệu lực 27/06/2024
Loại văn bản Hướng dẫn
Cơ quan ban hành Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Người ký Nguyễn Duy Giảng
Lĩnh vực Thủ tục Tố tụng

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 15/HD-VKSTC

Hà Nội, ngày 27 tháng 6 năm 2024

 

HƯỚNG DẪN

VIỆC XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN BỊ HỦY, SỬA VÀ KHÁNG NGHỊ CỦA VIỆN KIỂM SÁT KHÔNG ĐƯỢC TÒA ÁN CHẤP NHẬN TRONG CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH, VỤ VIỆC DÂN SỰ

Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 18/12/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về Công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2024, Kế hoạch số 01/KH-VKSTC ngày 19/12/2023 về thực hiện công tác trọng tâm của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao năm 2024; Để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, VKSND tối cao ban hành “Hướng dẫn việc xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát khi bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa và kháng nghị của Viện kiểm sát không được Tòa án chấp nhận trong công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự”.

I. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU, NGUYÊN TẮC

1. Mục đích

1.1. Tăng cường trách nhiệm của Lãnh đạo, Kiểm sát viên, công chức trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi tắt là vụ án hành chính, vụ việc dân sự); nhất là trong việc đề xuất, quyết định quan điểm giải quyết vụ, việc và quyết định kháng nghị.

1.2. Xác định đúng, đầy đủ các tiêu chí, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa, kháng nghị không được Tòa án chấp nhận có trách nhiệm của Viện kiểm sát để tính đúng các chỉ tiêu công tác có liên quan, đánh giá đúng chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, có giải pháp khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.

2. Yêu cầu

2.1. Việc xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát không chỉ dựa vào kết quả xét xử của Tòa án mà phải kết hợp đánh giá tính có căn cứ trong quan điểm giải quyết vụ, việc của Viện kiểm sát và quyết định kháng nghị.

2.2. Việc xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát phải chính xác, đầy đủ, khách quan, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với thực tiễn công tác, nghiêm túc, công bằng, bảo đảm nhân văn; chủ yếu để rút kinh nghiệm, thống nhất nhận thức, nâng cao năng lực, trách nhiệm của lãnh đạo, Kiểm sát viên, công chức, đáp ứng yêu cầu, chỉ tiêu công tác của Quốc hội và của Ngành.

3. Nguyên tắc xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát

3.1. Việc xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát được thực hiện bởi Viện kiểm sát có thẩm quyền theo Hướng dẫn này khi đã có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

3.2. Các trường hợp loại trừ trách nhiệm của Viện kiểm sát:

a) Bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân khách quan (gồm: đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ mới; đương sự rút đơn khởi kiện, rút yêu cầu, thay đổi nội dung kháng cáo; đương sự thỏa thuận được về một phần hoặc toàn bộ vụ án; nguyên nhân khác).

b) Bản án, quyết định bị sửa nhưng không làm thay đổi cơ bản quyết định của Tòa án trong bản án, quyết định, không làm thay đổi cơ bản quyền, lợi ích, nghĩa vụ, trách nhiệm của đương sự đã được Tòa án tuyên trong bản án, quyết định đó.

c) Trước khi bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bị Tòa án cấp trên hủy, sửa, Viện kiểm sát đã kiểm sát việc giải quyết vụ, việc phát hiện được sai sót, vi phạm trong công tác kiểm sát và đã báo cáo đề nghị Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

d) Kháng nghị của Viện kiểm sát không được Tòa án chấp nhận vì lý do khách quan (như có việc rút kháng cáo, rút đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đương sự tự nguyện hoặc thỏa thuận thi hành án xong hoặc sự việc khác làm cho kháng nghị không còn cần thiết).

đ) Các trường hợp khác không thuộc Phần III của Hướng dẫn này.

II. PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH, ĐỐI TƯỢNG ÁP DỤNG

1. Phạm vi điều chỉnh

1.1. Văn bản này chỉ hướng dẫn việc xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát khi bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa, kháng nghị không được Tòa án chấp nhận đối với vụ án hành chính, vụ việc dân sự. Căn cứ Hướng dẫn này, Viện trưởng Viện kiểm sát đã kiểm sát việc giải quyết vụ, việc mà bản án, quyết định bị hủy, sửa hoặc kháng nghị không được chấp nhận xác định trách nhiệm của cá nhân có liên quan.

1.2. Việc xác định trách nhiệm của Viện kiểm sát khi bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa được thực hiện đối với Viện kiểm sát cấp huyện, cấp tỉnh, cấp cao.

1.3. Việc xác định trách nhiệm khi kháng nghị của Viện kiểm sát không được Tòa án chấp nhận được thực hiện đối với Viện kiểm sát các cấp.

1.4. “Bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa” nêu trong Hướng dẫn này gồm:

a) Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm: Bản án sơ thẩm; Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ việc; Quyết định giải quyết việc dân sự; Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Quyết định công nhận kết quả đối thoại thành và đình chỉ việc giải quyết vụ án;

b) Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm: Bản án phúc thẩm; Quyết định phúc thẩm đối với quyết định đình chỉ của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự;

c) Bản án, quyết định của Tòa án xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm: Quyết định giám đốc thẩm; Quyết định tái thẩm.

1.5. “Kháng nghị của Viện kiểm sát không được Tòa án chấp nhận” nêu trong Hướng dẫn này gồm: Kháng nghị phúc thẩm, kháng nghị giám đốc thẩm, kháng nghị tái thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), Luật Tố tụng hành chính (LTTHC) mà kháng nghị đó không được Tòa án chấp nhận toàn bộ.

[...]