BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 670/BNN-TCCB
V/v hướng dẫn đào tạo phát triển ngành nghề
nông thôn.
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 3 năm 2003
|
Kính
gửi: UBND các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương
Thực hiện Quyết định số
132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn “hướng dẫn việc đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề và
nghiệp vụ kinh doanh cho các cơ sở ngành nghề nông thôn”, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn hướng dẫn đào tạo phát triển ngành nghề nông thôn như
nhau:
I. MỤC TIÊU VÀ NGÀNH NGHỀ ĐÀO TẠO:
1. Mục tiêu đào tạo:
Trang bị người học các kiến thức và kỹ
năng nghề nhất định về các ngành nghề nông thôn, giúp họ tạo việc làm mới, phát
triển làng nghề, phát triển các Điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về nông thôn và vùng
nguyên liệu; phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật, tăng nhanh
việc làm cho khu vực phi nông nghiệp.
2. Ngành nghề đào tạo:
Theo Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg
ngày 24 tháng 11 năm 2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành
nghề nông thôn của Thủ tướng Chính phủ thì ngành nghề nông thôn bao gồm:
a. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp ở
nông thôn:
- Chế biến bảo quản nông, lâm,
thuỷ sản;
- Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ,
mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, cơ khí nhỏ nông thôn;
- Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục
vụ sản xuất ngành nghề nông thôn.
b. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
c. Xây dựng , vận tải trong nội bộ
xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ sản xuất và đời sống dân cư nông thôn.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO:
1. Trình độ đào tạo:
- Bán lành nghề: người học được trang
bị một số kiến thức, kỹ năng và thái độ để thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ,
công việc của trình độ lành nghề (thời gian đào tạo dưới 1 năm).
- Lành nghề: người học được trang bị
kiến thức và kỹ năng nghề diện rộng hoặc chuyên sâu, có khả năng đảm nhận những
công việc phức tạp (thời gian đào tạo từ 1 đến 3 năm).
- Người học tốt nghiệp được cấp bằng
hoặc chứng chỉ nghề theo quy định của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội.
2. Nội dung đào tạo hướng vào việc
giúp cho người được đào tạo tự tạo ra được việc làm cho mình và cho người
khác, nâng cao kỹ năng tay nghề về ngành nghề nông thôn cho lao động nông thôn.
Bồi dưỡng nâng cao kiến thức về quản trị kinh doanh, pháp luật cho chủ hộ, chủ
cơ sở ngành nghề nông thôn. Bồi dưỡng trình độ sư phạm cho những người truyền
nghề, nghệ nhân ở nông thôn.
III. ĐỐI TƯỢNG ĐÀO TẠO:
1. Thanh niên nông thôn có trình độ
văn hoá Phổ thông trung học hoặc Phổ thông cơ sở;
2. Các hộ gia đình, cá nhân, cơ sở
ngành nghề nông thôn. Ưu tiên đào tạo và sử dụng lao động đối với những hộ gia
định mà Nhà nước thu hồi đất để phát triển ngành nghề, lao động là người địa
phương.
3. Cán bộ Tổ, nhóm hợp tác xã, doanh
nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
doanh, chủ trang trại, cán bộ khuyến công Huyện, Xã.
4. Cán bộ trong các tổ chức xã hội
như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Mặt trận Tổ
quốc.
IV. HỆ THỐNG ĐÀO TẠO NGÀNH NGHỀ
NÔNG THÔN:
1. Các trường dạy nghề Nhà nước thuộc
ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các
trường thuộc địa phương có nghề đào tạo phù hợp có kế hoạch mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng đào tạo hệ chính quy, ưu tiên tuyển sinh theo địa chỉ các
làng nghề. Đẩy mạnh dạy nghề ngắn hạn từ 1 đến 3 tháng, tuỳ theo từng loại nghề
và mức độ tinh xảo của sản phẩm, theo hình thức chuyển giao công nghệ tại xã,
phường, làng nghề, tổ hợp tác.
2. Tùy Điều kiện và khả năng của từng
địa phương, mỗ, Huyện có thể lập một trung tâm dạy nghề truyền thống của
địa phương.
3. Các trường mỹ thuật công nghiệp
chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy về thiết kế mẫu mã, tạo dáng sản phẩm
các mặt hàng tối thiểu, thủ công nghiệp, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Đào tạo một
số thợ giỏi để tạo ra mẫu mã mới và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
4. Khuyến khích các nghệ nhân, hợp
tác xã, tổ chức, hiệp hội mở các lớp truyền nghề, dạy nghề cho lao động.
5. Bộ giao Trường Cán bộ quản
lý Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn I (ở Hà Nội) và II (ở Thành Phố
Hồ Chí Minh) chủ trì cùng các trường kinh tế nghiệp vụ có liên quan xây dựng
chương trình và tổ chức lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức về quản lý doanh nghiệp,
pháp luật, tài chính kế toán cho chủ các cơ sở ngành nghề nông thôn.
Giao Trường Công nhân Chế biến gỗ TW
(Phủ Lý - Hà Nam) bồi dưỡng sư phạm cho các nghệ nhân, người truyền nghề ở các
làng nghề; đào tạo thiết kế mẫu mã hàng khảm trai, chạm khắc gỗ.
V. CÁC HÌNH THỨC VÀ TỔ CHỨC DẠY
NGHỀ:
1. Đào tạo nghề chính quy dài hạn:
- Tăng quy mô tuyển sinh đào tạo nghề
dài hạn (trình độ lành nghề) Khoảng 11-112% năm. Dự tính mỗi năm đào tạo Khoảng
28.000 công nhân kỹ thuật cho ngành nông nghiệp, trong đó ưu tiên đào tạo cho
các cơ sở ngành nghề nông thôn.
- Hàng năm tổ chức nghiên cứu, Điều
tra thị trường lao động ngành nghề nông thôn gắn với định hướng của địa phương,
để xác định nhu cầu đào tạo. Trên cơ sở đó, từng bước thực hiện giao chỉ tiêu
đào tạo theo nhu cầu thực tế.
- Khuyến khích và tăng cường các hình
thức liên kết giữa các trường với cơ sở sản xuất; kết hợp đào tạo kiến thức và
kỹ năng cơ bản tại trường với đào tạo kỹ năng nghề nghiệp tại cơ sở sản xuất.
- Ưu tiên đào tạo các nghề sau đây:
+ Gò-hàn
+ Vận hành máy nông lâm
nghiệp;
+ Sửa chữa ôtô, xe máy;
+ Điện dân dụng;
+ Mua bán, bảo quản
lương thực;
+ Quản lý khai thác công
trình thuỷ lợi;
+ Sửa chữa vận hành bơm
điện;
+ Vận hành sửa chữa máy
tàu cuốc
- Đào tạo một số nghề mới để phù hợp
với nhu cầu phát triển ngành nghề nông thôn. Hiện đang đào tạo một số nghề
mới: Cơ điện nông thôn, Quản lý doanh nghiệp nhỏ nông nghiệp, cấp thoát nước
nông thôn ...
2. Dạy nghề ngắn hạn và các nghề truyền
thống
- Đẩy mạnh dạy nghề ngắn hạn, mỗi năm
dạy nghề Khoảng 100.000 lao động có tay nghề về chế biến nông, lâm, thuỷ sản;
100.000 người có tay nghề thủ công nghiệp, thủ công mỹ nghệ; 50.000 người có
tay nghề về cơ, điện, cơ điện nông thôn; 100.000 người có tay nghề dịch vụ ở
nông thôn.
- Nghề truyền thống được chia thành
các nhóm chủ yếu sau:
Nhóm 1: Nghề sản xuất các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ (gốm sứ, sơn mài, thêu ren, thảm, chạm khắc gỗ, chạm mạ vàng bạc,
dệt tơ tằm, thổ cẩm, mây tre đan);
Nhóm 2: Nghề sản xuất các mặt hàng
tiêu dùng (dệt chiếu, làm nón, rổ, rá, thừng chão, dệt vải các loại);
Nhóm 3: Nghề phục vụ sản xuất và đời
sống (nề, mộc, rèn, hàn, đúc);
Nhóm 4: Nghề chế biến lương thực và
thực phẩm (làm bún, bánh, đường, mật, tương, chế biến hải sản các loại);
- Xây dựng phát triển làng nghề
mới theo quy hoạch gắn với quy hoạch nông nghiệp và nông thôn. Đối với các
làng, xã chưa phát triển làng nghề, cần lựa chọn, đào tạo bồi dưỡng một số
doanh nghiệp trẻ, năng động, biết cách làm ăn để làm nòng cốt thu hút các
hộ, các cá nhân khác tham gia phát triển nghề, dần dần hình thành các làng nghề
mới.
- Bồi dưỡng kiến thức quản lý doanh
nghiệp, pháp luật tài chính, kế toán, thị trường cho chủ cơ sở ngành nghề nông
thôn.
3. Tổ chức lớp dạy nghề:
Có 4 hình thức phổ biến thường được
áp dụng tổ chức lớp dạy nghề ngắn hạn:
- Các lớp dạy nghề nông thôn thường tổ
chức ở những địa bàn có khả năng thu hút nhiều lao động, có thị trường tiêu thụ
sản phẩm và phục vụ gia đình. Thời gian bố trí 1 khoá học trung bình từ 15 ngày
đến 3 tháng tuỳ theo nghề và mô hình thực tập phù hợp với Điều kiện ở nông
thôn. Địa Điểm tổ chức cũng linh hoạt theo từng cụm dân cư. Học viên là những
người trong độ tuổi lao động đang cần có nghề và việc làm, giáo viên huy động kỹ
sư công tác ở huyện và các đơn vị trong tỉnh, nghệ nhân, thợ giỏi, chủ cơ sở sản
xuất có tay nghề. Nội dung chương trình đào tạo vừa phải theo kịp vừa đi tắt
đón đầu nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Phải thường xuyên bổ sung cập
nhật kiến thức mới phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Học viên học nghề sau khi tốt nghiệp
được cấp chứng chỉ và chứng chỉ nghề được xem là một trong những tiêu chuẩn để
giới thiệu việc làm và xem xét cấp giấy phép hành nghề.
- Các Trung tâm dạy nghề truyền thống
áp dụng phương thức “dạy nghề di động”, gắn với chuyển giao khoa học kỹ thuật
cho lao động nông thôn vùng sâu, vùng xa.
- Tổ chức lớp tập trung, nhân cấy
phát triển nghề mới có số học viên từ 30 đến 40 người, thời gian học từ 1 đến 3
tháng, vừa học thực hành theo chương trình do các nghệ nhân có nhiều kinh nghiệm
xây dựng và được thẩm định của cơ sở đào tạo. Hình thức này thường được áp dụng
cho các làng chưa có nghề, hoặc đã có nghề nhưng số người có nhu cầu học đông.
- Hình thức dạy nghề, truyền nghề
thông qua kèm cặp vừa học, vừa làm. Hình thức này được áp dụng nhiều trong các làng
đang có nghề và một số địa phương tự tổ chức lao động đến học nghề tại địa
phương khác. Những người học nghề được cán bộ thôn bố trí hoặc tự lo việc
làm chỗ khác. Dạy nghề, học nghề theo phương pháp kèm cặp đỡ tốn kém kinh phí,
người học nghề nắm bắt nghề nhanh, cán bộ của làng xã đỡ vất vả, tỷ lệ người có
việc làm cao.
VI. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Dạy nghề gắn với việc làm và tiêu
thụ sản phẩm:
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng
quyết định sự thành công của người học nghề và hành nghề. Người học nghề
được giúp đỡ có Điều kiện hành nghề và tiêu thụ sản phẩm, người học sau khi tốt
nghiệp có bằng hoặc chứng chỉ nghề, có dự án làm ăn tốt sẽ được Ngân hàng cho
vay vốn sản xuất. Địa phương chỉ đạo và giải quyết kịp thời các khó khăn vướng
mắc trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
2. Các trường đào tạo ngành nghề nông
thôn trong các ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần nâng cao nhận thức,
trách nhiệm thực hiện đào tạo ngành nghề nông thôn. Các trường ưu tiên dành chỉ
tiêu đào tạo nghề cho các cơ sở ngành nghề nông thôn. Các trường ưu tiên dành
chỉ tiêu đào tạo nghề cho các cơ sở ngành nghề nông thôn trong phạm vi kế hoạch
kinh phí hàng năm Nhà nước cấp cho các trường dạy nghề. Thực hiện Quyết định
50/1999/QĐ-TTg ngày 24/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ, khi xây dựng kế hoạch
đào tạo các trường không chỉ xây dựng kế hoạch đào tạo chính quy mà còn xây dựng
cả kế hoạch đào tạo nghề ngắn hạn phục vụ phát triển ngành nghề nông thôn. Các
trường tiến hành Điều tra nhu cầu học hỏi của nông dân, xây dựng kế hoạch
- chương trình đào tạo, phối hợp với Sở Lao động-Thương binh và Xã hội , Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức lớp đào tạo tại trường hoặc tại
cơ sở làng, xã. Các trường biên soạn tài liệu giảng dạy đáp ứng yêu cầu thực tế
của người học, của địa phương, đào tạo theo mô đun, coi trọng kỹ năng thực
hành.
3. Có chính sách khuyến khích dạy nghề,
học nghề và phát triển ngành nghề nông thôn. Đa số lao động nông thôn có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn, nhiều người nghèo phải kiếm sống hàng ngày nên tham gia học
không liên tục, trình độ nhận thức còn hạn chế, nhất là đối với hộ nghèo, hộ
dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, nên cần có chính sách khuyến khích dạy nghề, học
nghề như sau:
- Đối với người học: Có thể miễn thu
phần đóng góp của học viên, trong thời gian học sau khi làm ra sản phẩm tiêu thụ
trên thị trường được bồi dưỡng từ 30-50% lãi của một sản phẩm, được ưu tiên bố
trí việc làm, được làng và chủ sản xuất ưu tiên bao tiêu sản phẩm, sau khi trở
thành chủ sản xuất kinh doanh được xét miễn, giảm thuế thời gian đầu;
- Đối với người dạy nghề: Đây là nhân
tố quan trọng giúp người học nghề thành đạt. Nghệ nhân làng nghề được phối
hợp với các cơ sở đào tạo của Nhà nước để tổ chức các lớp đào tạo hoặc tự tổ chức
các lớp đào tạo phù hợp với ngành nghề sản xuất của cơ sở ngành nghề nông thôn
và được miễn các loại thuế trong hoạt động truyền nghề. Nếu là các chủ cơ sở sản
xuất dạy nghề kèm cặp thì khuyến khích động viên họ để phát triển sản xuất kinh
doanh, đáp ứng yêu cầu về điện nước, giúp đỡ, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản
phẩm và có chế độ khen thưởng kịp thời.
4. Huy động kinh phí dạy nghề:
- Chi phí tổ chức các lớp đào tạo
ngành nghề nông thôn được hỗ trợ theo Thông tư số 84/2002/TT-BTC ngày
26/9/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn những vấn đề tài chính khuyến khích phát
triển ngành nghề nông thôn.
- Đa dạng hoá nguồn kinh phí bằng tiền
thu học phí; hỗ trợ của Tỉnh, của Huyện, của Xã; của các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước; sự ủng hộ của các chủ cơ sở sản xuất kinh doanh.
- Các lớp đào tạo theo hình thức vừa
học, vừa làm thì chi phí đào tạo tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của cơ sở
ngành nghề nông thôn.
- Xã hội hoá đào tạo nghề cho nông
dân đòi hỏi các trường dạy nghề TW, địa phương, các tổ chức xã hội phải chủ động
bám sát các chương trình, dự án kinh tế của địa phương để tranh thủ nguồn kinh
phí hỗ trợ đào tạo nghề.
VII. ĐỀ NGHỊ UBND CÁC TỈNH,
THÀNH PHỐ:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan
tâm, chỉ đạo tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo ngành nghề nông
thôn tại địa phương. Sở Lao động-Thương binh và Xã hội phối hợp chặt chẽ với Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tham mưu cho UBND tỉnh, xây dựng kế hoạch
đào tạo, cụ thể như sau:
- Xác định nhu cầu học nghề tại địa
phương;
- Danh Mục nghề cần dạy;
- Số lượng lớp học, địa Điểm sẽ tổ chức
lớp học; người chịu trách nhiệm trước Nhà nước trong việc tổ chức dạy nghề;
- Kế hoạch ngân sách địa phương hỗ trợ
và xây dựng định mức chi thích hợp cho từng lớp học;
- Tổng hợp, báo cáo kết quả dạy nghề
và những vấn đề cần giải quyết về các cơ chế chính sách về cấp trên 6 tháng và
một năm.
Trên cơ sở kế hoạch được duyệt, hướng
dẫn thủ tục đăng ký mở lớp, tổ chức quản lý lớp học, cũng như công tác kiểm tra
thực hiện.
Đề nghị UBND tỉnh gửi một bản kế hoạch
về Vụ Tổ chức Cán bộ - Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn để tổng hợp./.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Văn Đẳng
|