Công văn 3369/BCT-CN năm 2022 báo cáo tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ do Bộ Công thương ban hành

Số hiệu 3369/BCT-CN
Ngày ban hành 15/06/2022
Ngày có hiệu lực 15/06/2022
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Bộ Công thương
Người ký Đỗ Thắng Hải
Lĩnh vực Thương mại

BỘ CÔNG THƯƠNG
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 3369/BCT-CN
V/v Báo cáo tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết 115/NQ-CP ngày 06 tháng 08 năm 2020 của Chính phủ về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ

Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2022

 

Kính gửi: Thủ tướng Chính Phủ

Ngày 06 tháng 08 năm 2020, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ (Sau đây gọi tắt là Nghị quyết 115/NQ-CP). Ngày 30 tháng 10 năm 2020, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 2793/QĐ-BCT ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Công Thương thực hiện Nghị quyết số 115/NQ-CP.

Sau 01 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết, Bộ Công Thương đã gửi Công văn số 3256/BCT-CN ngày 07 tháng 6 năm 2021 đề nghị các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức báo cáo tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết. Trên cơ sở tổng hợp Báo cáo của 09 Bộ, ngành, 51 địa phương và các tổ chức liên quan khác về tình hình triển khai Nghị quyết số 115/NQ-CP, Bộ Công Thương kính báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình và kết quả thực hiện Nghị quyết, cụ thể như sau:

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHỊ QUYẾT

Nghị quyết 115/NQ-CP được Chính phủ ban hành trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 gây ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế thế giới cũng như tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam. Sự ra đời của Nghị quyết 115/NQ-CP được đánh giá là đòn bẩy chính sách hữu hiệu nhằm tạo điều kiện cho ngành công nghiệp Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam nói riêng phát triển mạnh mẽ, tạo cơ hội đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ nước ngoài. Nghị quyết 115/NQ-CP thể hiện sự quyết tâm và nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc cải thiện môi trường đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

1. Đánh giá chung

Sau hơn 01 năm triển khai thực hiện theo định hướng, quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 115/NQ-CP, công tác triển khai bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Nhìn chung, các giải pháp đề ra tại Nghị quyết 115/NQ-CP được điều chỉnh phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh mới, có nhiều giải pháp mang tính đột phá, mới mẻ. Các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan đã chủ động triển khai, thực hiện các nhiệm vụ được giao trong Nghị quyết 115/NQ-CP nhằm đạt được những mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể đề ra, cho thấy sự nâng cao trong nhận thức về vai trò quan trọng của công nghiệp hỗ trợ đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Việc triển khai đồng bộ các giải pháp theo Nghị quyết số 115/NQ-CP đã góp phần khơi thông, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Tuy nhiên, sau hơn 01 năm triển khai Nghị quyết, bên cạnh những kết quả đạt được, nhiều nhiệm vụ đề ra vẫn chưa được triển khai hoặc triển khai còn chậm dẫn đến hiệu quả chưa thực sự rõ rệt. Một số cơ chế, chính sách hiện hành bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc trong quá trình thực thi tuy nhiên vẫn chưa được các Bộ, ngành và cơ quan có thẩm quyền đánh giá và nghiên cứu điều chỉnh. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, cơ quan liên quan trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao còn nhiều hạn chế, dẫn đến hiệu quả triển khai Nghị quyết chưa cao.

2. Đánh giá cụ thể

a) Về hoàn thiện cơ chế, chính sách:

Nhiều chính sách hỗ trợ, ưu đãi cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã được các Bộ, ngành nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành mới hoặc điều chỉnh, bổ sung, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh, từ đó tạo tiền đề cho ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Một số chính sách đã được ban hành trong thời gian qua gồm có:

- Nghị định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2021 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, trong đó Thủ tướng Chính phủ quyết định mức, thời gian ưu đãi đầu tư đặc biệt theo các tiêu chí về công nghệ cao, chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi, giá trị sản xuất trong nước đối với các dự án đầu tư quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật Đầu tư.

- Nghị định số 57/2021/NĐ-CP ngày 04 tháng 6 năm 2021 bổ sung điểm g khoản 2 Điều 20 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 20 Điều 1 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP) về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT.

- Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2020 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2016 và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2017 (Nghị định số 57/2020/NĐ-CP). Theo đó, ngoài Chương trình ưu đãi thuế nhập khẩu linh kiện ô tô được áp dụng từ năm 2017, Nghị định số 57/2020/NĐ-CP đã bổ sung thêm Chương trình ưu đãi thuế CNHT ô tô quy định nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để sản xuất, gia công các sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển cho ngành sản xuất, lắp ráp ô tô được áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi 0%. Thời gian thực hiện của Chương trình là 5 năm (2020- 2024).

- Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10 tháng 01 năm 2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, trong đó có các quy định liên quan đến trách nhiệm tái chế, thu gom, xử lý sản phẩm, chất thải của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu. Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao trách nhiệm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định việc thải bỏ phương tiện giao thông trước ngày 01 tháng 01 năm 2025.

- Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15 tháng 6 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030;

- Quyết định số 377/QĐ-BTTTT ngày 26 tháng 3 năm 2021 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số, trong đó bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ;

Trong năm 2021, Bộ Công Thương đã nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ xem xét, phê duyệt Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Dự thảo Nghị định xây dựng, đề xuất một số cơ chế, chính sách mới như chính sách hỗ trợ tín dụng theo hình thức cấp bù lãi suất thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại và hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; cơ chế ưu đãi thí điểm đặc thù đối với các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp nhằm thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, góp phần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.

Bộ Công Thương đã nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ Dự thảo Chiến lược phát triển ngành Dệt May và Da Giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035. Hiện nay, Bộ Công Thương cũng đang trong quá trình xây dựng Dự án Luật Phát triển công nghiệp, dự kiến trình Quốc hội xem xét thông qua trong giai đoạn 2022 - 2023.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang trình Chính phủ dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/1/2018 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp và khu kinh tế, trong đó có nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích phát triển mô hình khu công nghiệp hỗ trợ, KCN chuyên sâu như miễn, giảm tiền thuê đất, ưu tiên vay vốn tín dụng đầu tư, vốn vay ưu đãi ODA, hưởng các ưu đãi thuế, ưu tiên tham gia các chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,...

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 31/2015/NĐ-CP ngày 24/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật việc làm về đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia trong đó quy định khung trình độ quốc gia được xây dựng tương thích với khung trình độ ASEAN và thế giới nhằm hài hòa khung trình độ kỹ năng nghệ giữa Việt Nam và các nước.

Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đang nghiên cứu xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, dự kiến hoàn thành trong năm 2022 nhằm công khai, minh bạch trong quá trình tiếp nhận, xử lý các phản ánh, kiến nghị của doanh nghiệp và các nội dung góp phần cải cách thủ tục hành chính.

Bên cạnh đó, ở cấp địa phương, các địa phương có thể mạnh và tiềm năng phát triển công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp chế biến, chế tạo đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 115/NQ-CP cũng như công tác cải cách thể chế, chính sách, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và đơn giản hóa các thủ tục hành chính nhằm khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất trên địa bàn địa phương, góp phần không nhỏ vào sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ hiện nay. Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo và định hướng của Nghị quyết, việc xây dựng cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển và hoạch định phát triển công nghiệp hỗ trợ của các địa phương ngày càng toàn diện, rõ nét và hiệu quả hơn. Ngoài ra, các giải pháp hỗ trợ cũng được triển khai đồng bộ, thiết thực hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tiếp cận các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi; từ đó giúp nâng cao số lượng và chất lượng, cải thiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp duy trì sản xuất bền vững trong bối cảnh khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra.

Có thể thấy, hệ thống pháp luật, chính sách về công nghiệp hỗ trợ ngày càng được hoàn thiện, góp phần hỗ trợ thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ ngày càng phát triển và lớn mạnh.

Tuy nhiên, hiện nay, một số nhiệm vụ được giao cho các Bộ, ngành tại Nghị quyết 115/NQ-CP vẫn chưa được triển khai thực hiện như các nhiệm vụ liên quan đến sửa đổi, bổ sung các Luật thuế; các quy định liên quan đến thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ; giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong công tác xử lý môi trường... Cụ thể như sau:

Bộ Tài chính chưa triển khai nhiệm vụ: xây dựng cơ chế thu kinh phí xử lý sản phẩm thải bỏ đối với các sản phẩm nhập khẩu do các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chưa có quy định về việc xử lý các sản phẩm thải bỏ của ngành điện tử, ô tô; các nội dung liên quan đến sửa đổi các chính sách về ưu đãi thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô).

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai tuy nhiên các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ không phải là đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi về đất đai, hỗ trợ xử lý các vấn đề về môi trường và hỗ trợ tiếp cận đất đai; danh mục hoạt động bảo vệ môi trường được hỗ trợ, ưu đãi không bao gồm các dự án dệt nhuộm, thuộc da có đầu tư hệ thống xử lý nước thải; sản xuất, tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường được cấp nhãn sinh thái;...Một số nhiệm vụ khác được giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường tại Nghị quyết số 115/NQ-CP cũng chưa được triển khai.

Mặc dù các Bộ, ngành đã chủ động triển khai các nhiệm vụ được giao tuy nhiên kết quả và hiệu quả vẫn chưa thực sự rõ rệt. Một số vướng mắc, tồn tại tại các quy định hiện hành vẫn chưa được các Bộ, ngành quan tâm nghiên cứu và tìm biện pháp tháo gỡ, gây ra tình trạng có chính sách nhưng không triển khai trong thực tế hoặc hiệu quả triển khai rất thấp. Ví dụ, các quy định về thuế vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp; chính sách phát triển CNHT hiện nay còn thiếu các cơ chế đủ hữu hiệu để gắn kết giữa doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp chế biến, chế tạo; chưa có chính sách tận dụng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp chế xuất (chủ yếu là doanh nghiệp FDI) để nâng cao giá trị gia tăng trong nước của sản phẩm chính và phát triển chuỗi cung ứng tại ngay chính thị trường nội địa; chính sách thu hút đầu tư FDI vào các ngành sản xuất sản phẩm CNHT cũng chưa đủ hấp dẫn để thu hút được những các nhà đầu tư lớn, có vai trò làm động lực lan tỏa cho cả ngành.

[...]