Công văn số 2523/TCT-TNCN của Tổng Cục Thuế về việc vướng mắc trong công tác quản lý thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
Số hiệu | 2523/TCT-TNCN |
Ngày ban hành | 17/07/2006 |
Ngày có hiệu lực | 17/07/2006 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Tổng cục Thuế |
Người ký | Nguyễn Thị Cúc |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí |
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2523/TCT-TNCN |
Hà Nội, ngày 17 tháng 07 năm 2006 |
Kính gửi: Cục thuế tỉnh Bắc Ninh
Trả lời công văn số 658/CTBN/QLDN ngày 07/6/2006 của Cục thuế tỉnh Bắc Ninh về một số vướng mắc trong công tác quản lý thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (thuế thu nhập cá nhân), Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ các Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 147/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004 của Chính phủ quy định chi Tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; Thông tư số 12/2005/TT-BTC ngày 4/02/2005 sửa đổi, bổ sung một số Điểm của Thông tư số 81/2004/TT-BTC, thì:
1. Trường hợp người nước ngoài là đối tượng cư trú tại Việt Nam khi quyết toán thuế thu nhập phải kê khai tổng số thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thu nhập phát sinh ngoài Việt Nam, việc quyết toán số thuế phải nộp theo quy định tại Mục II Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính. Để có cơ sở xác định đúng thu nhập chịu thuế ở nước ngoài, cá nhân phải xuất trình chứng từ chi trả thu nhập ở nước ngoài, kèm theo thư xác nhận thu nhập hàng năm theo mẫu số 12/TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính. Trường hợp có nghi ngờ đối với thông tin về thu nhập ở nước ngoài hoặc người nộp thuế cố tình không cung cấp thông tin thì Cục thuế báo cáo với Tổng cục thuế để xử lý theo quy định của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Trong mọi trường hợp, phải yêu cầu người nộp thuế chịu trách nhiệm về thông tin đã cung cấp.
Trường hợp Cục thuế đã có văn bản yêu cầu nhưng cá nhân người nước ngoài vẫn không gửi Thư xác nhận thu nhập hàng năm theo mẫu số 12/TNCN nêu trên thì có thể thực hiện các biện pháp xử lý như sau:
Gửi giấy mời cá nhân lên làm việc trực tiếp với Cục thuế, tiến hành lập Bản ghi nhớ theo mẫu 01b/TNTX ban hành kèm theo Thông tư số 12/2005/TT-BTC ngày 4/02/2005 của Bộ Tài chính và hướng dẫn cá nhân kê khai quyết toán thuế (mẫu số 08/TNTX) và yêu cầu cá nhân cung cấp các chứng từ, tài liệu liên quan hồ sơ quyết toán thuế theo đúng quy định. Trường hợp cá nhân trong năm tính thuế không có thu nhập chịu thuế phát sinh ở nước ngoài thì phải làm bản cam đoan và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam đoan đó.
Xử phạt vi phạm hành chính về thuế theo quy định tại Tiết 1.1, Điểm 1, Mục VI, Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính.
Cục thuế báo cáo với Tổng cục Thuế để xử lý theo quy định của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần.
Cục thuế gửi công văn cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh đề nghị dừng làm thủ tục xuất cảnh. Trường hợp người nước ngoài chưa đến hạn xuất cảnh vẫn ở tại Việt Nam thì Cục thuế gửi công văn đến Công ty mà cá nhân đang làm việc và cơ quan quản lý lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam (Sở Ngoại vụ) để đề nghị phối hợp đôn đốc cá nhân thực hiện pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và xem xét việc thực hiện hợp đồng lao động với cá nhân đó.
2. Trường hợp cá nhân nước ngoài không thông qua các tập đoàn phía nước ngoài mà ký hợp đồng làm việc trực tiếp với Công ty tại Việt Nam, nếu có thu nhập phát sinh ngoài Việt Nam thì phải kê khai vào tờ khai quyết toán thuế năm, kèm theo Thư xác nhận thu nhập hàng năm theo mẫu số 12/TNCN ban hành kèm theo Thông tư số 81/2004/TT-BTC ngày 13/8/2004 của Bộ Tài chính; nếu không có thu nhập phát sinh ngoài Việt Nam thì cá nhân làm bản cam đoan và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam đoan đó.
3. Các Khoản thu nhập không tính trong tiền lương, tiền công được công ty chi trả hộ như tiền nhà, điện, nước; riêng tiền nhà tính theo số thực tế chi trả hộ nhưng không vượt quá 15% tổng thu nhập chịu thuế. Tổng thu nhập chịu thuế để tính mức khống chế chi phí tiền nhà chi trả hộ nêu trên đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam được tính trên toàn bộ số thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thu nhập phát sinh ở nước ngoài.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục thuế tỉnh Bắc Ninh được biết và thực hiện./
|
KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG |