Công văn 16029/BTC-CST xác định trị giá tính thuế nhập khẩu hàng hóa liên quan đến phí kỳ vụ (phí bản quyền) do Bộ Tài chính ban hành
Số hiệu | 16029/BTC-CST |
Ngày ban hành | 12/11/2009 |
Ngày có hiệu lực | 12/11/2009 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Tài chính |
Người ký | Đỗ Hoàng Anh Tuấn |
Lĩnh vực | Xuất nhập khẩu,Thuế - Phí - Lệ Phí |
BỘ
TÀI CHÍNH |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 16029/BTC-CST |
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2009 |
Kính gửi: |
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư; |
Trong quá trình thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về tài chính, kế toán, thuế và hải quan tại một số doanh nghiệp trong nước (tập trung chủ yếu trong ngành sản xuất, lắp ráp ô tô) đã phát sinh vấn đề xác định trị giá tính thuế nhập khẩu hàng hóa liên quan đến phí kỳ vụ (phí bản quyền). Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến trao đổi với quý Bộ như sau:
Qua nghiên cứu Hợp đồng Li-xăng được ký kết giữa các doanh nghiệp trong nước và đối tác nước ngoài cho thấy: Để được sử dụng các công nghệ, sáng chế, trợ giúp kỹ thuật và kể cả việc bán các sản phẩm mang nhãn hiệu của đối tác ký kết nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước phải trả khoản phí bản quyền (thường được tính theo chu kỳ thời gian nhất định) còn gọi là phí kỳ vụ. Khoản phí kỳ vụ này được tính (theo tỷ lệ phần trăm nhất định) trên giá bán tịnh của mỗi sản phẩm mà bên nhận chuyển giao công nghệ bán ra (doanh nghiệp trong nước). Trong đó, giá bán tịnh là mức giá bán gộp theo hóa đơn sản phẩm trừ đi các chi phí như các khoản thuế phải nộp (thuế thu nhập, thuế TTĐB, thuế GTGT); chiết khấu thương mại; giá nhập khẩu và thuế nhập khẩu các linh kiện, phụ tùng, bán thành phẩm … mua từ phía đối tác nước ngoài hoặc từ các nhà cung cấp khác và được cấu thành trong sản phẩm; chi phí vận chuyển, đóng gói, bao bì và chi phí quảng cáo.
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 Hiệp định về thực hiện Điều VII của Hiệp định về Thuế quan và Thương mại 1994 (Hiệp định trị giá GATT) thì khi xác định trị giá tính thuế quan cần phải tính thêm vào giá thực sự đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hóa nhập khẩu các khoản bao gồm tiền bản quyền, tiền giấy phép sử dụng bằng sáng chế liên quan đến hàng hóa mà người mua phải trả, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, như là một điều kiện của việc bán hàng hóa đang được định giá, trong chừng mực mà tiền bản quyền, tiền giấy phép sử dụng bằng sáng chế đó không bao gồm trong giá đã thanh toán hoặc phải thanh toán và trên cơ sở đảm bảo các điều kiện như:
- Không có sự hạn chế nào trong việc người mua định đoạt hay sử dụng hàng hóa, trừ những hạn chế: (i) đã được áp dụng hoặc quy định bởi luật pháp hoặc bởi các cơ quan có thẩm quyền tại nước nhập khẩu; (ii) nhằm giới hạn những khu vực địa lý mà hàng hóa có thể được phép bán lại hoặc (iii) không gây ảnh hưởng lớn tới giá trị hàng hóa.
- Việc mua bán hoặc giá cả không phụ thuộc vào điều kiện hoặc suy xét nào đó khiến không thể xác định được giá trị của hàng hóa đang được định giá.
- Người bán sẽ không được trực tiếp hoặc gián tiếp hưởng bất kỳ phần nào từ số tiền do người mua thu được qua bán lại, nhượng lại hoặc sử dụng hàng hóa này, trừ một số điều chỉnh hợp lý được phép trong đó có tính tới tiền bản quyền, tiền giấy phép sử dụng bằng sáng chế ….
- Người mua và người bán không có liên hệ, hoặc trong trường hợp có liên hệ đó thì giá trị giao dịch chỉ được chấp nhận cho mục đích thuế quan theo các quy định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 40/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu về các khoản phải cộng vào trị giá giao dịch để xác định trị giá tính thuế có bao gồm: Tiền bản quyền, phí giấy phép sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến hàng hóa nhập khẩu mà người mua phải trả như điều kiện của việc mua bán hàng hóa nhập khẩu; Các khoản tiền mà người mua thu được sau khi định đoạt, sử dụng hàng hóa nhập khẩu được chuyển dưới mọi hình thức cho người bán hàng nhập khẩu;
Căn cứ các quy định nêu trên thì đối với khoản phí bản quyền (phí kỳ vụ) mà các doanh nghiệp tại Việt Nam trả cho các đối tác nước ngoài theo Hợp đồng li-xăng đã ký kết trong trường hợp nêu trên thuộc diện phải cộng vào trị giá giao dịch để xác định trị giá tính thuế nhập khẩu đối với linh kiện, phụ tùng … nhập khẩu từ phía đối tác nước ngoài để sản xuất sản phẩm.
Tuy nhiên, việc tính các khoản phí bản quyền khi xác định giá trị tính thuế phải nộp của hàng hóa nhập khẩu gặp một số vướng mắc như sau:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 40/2007/NĐ-CP nêu trên thì thời điểm xác định trị giá hải quan là ngày người khai hải quan đăng ký tờ khai hải quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp này, khoản phí bản quyền lại chỉ được xác định cụ thể bên nhận chuyển giao công nghệ hoàn tất quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà không thể xác định được ngay khi nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu sản xuất.
- Phí bản quyền được xác định theo giá bán tịnh của sản phẩm thành phẩm (được sản xuất từ linh kiện, phụ tùng nhập khẩu và các linh kiện sản xuất trong nước) do vậy phát sinh khó khăn trong việc tính toán, phân bổ mức giá trị phải cộng vào khi xác định trị giá nhập khẩu của linh kiện, phụ tùng … cấu thành trong thành phẩm.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Hiệp định về thực hiện Điều VII của Hiệp định về Thuế quan và Thương mại 1994; Các khoản tính thêm vào giá hàng đã thanh toán hoặc phải thanh toán theo Điều này cần phải dựa trên dữ liệu khách quan và có thể định lượng được. Cụ thể: Khi không tồn tại các dữ liệu khách quan và có thể lượng hóa được liên quan đến các khoản tính thêm đòi hỏi phải bổ sung thì trị giá giao dịch không thể xác định theo các quy định nêu trên. Nếu tiền bản quyền một phần dựa trên hàng hóa nhập khẩu và một phần được dựa trên các nhân tố khác không có liên hệ gì với hàng hóa nhập khẩu đó (thí dụ khi hàng hóa nhập khẩu được trộn lẫn với các thành phần sản xuất trong nước và không thể phân tách riêng rẽ được) thì việc cố gắng đưa một khoản bổ sung tiền phí bản quyền khi xác định trị giá tính thuế là không thích hợp. Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 Điều 13 Nghị định số 40/2007/NĐ-CP nêu trên: “Việc cộng thêm hoặc trừ đi các chi phí quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này chỉ được thực hiện trên cơ sở các số liệu khách quan, có sẵn và định lượng được, phù hợp với các quy định của pháp luật về kế toán”.
Ngoài ra, đối với phần thu nhập từ phí bản quyền của bên chuyển giao công nghệ nước ngoài theo quy định hiện hành là khoản thu nhập áp dụng tính thuế nhà thầu. Cụ thể, theo quy định tại điểm 2.3 khoản 2 mục I phần B Thông tư số 134/2008/TT-BTC ngày 31/12/3008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam thì thu nhập chịu thuế của nhà thầu nước ngoài (bao gồm: tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam) có: ”Thu nhập từ tiền bản quyền là khoản thu nhập dưới bất kỳ hình thức nào được trả cho quyền sử dụng, chuyển quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (bao gồm: các khoản tiền trả cho quyền sử dụng, chuyển giao quyền tác giả và quyền chủ sở hữu tác phẩm; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ)”. Do đó, trường hợp cộng thêm khoản phí bản quyền khi xác định trị giá tính thuế nhập khẩu rồi lại thu thuế nhà thầu (bao gồm cả thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng) là không hợp lý và trùng lắp.
Về vấn đề này, tại công văn số 1030/KHCN-ĐTG ngày 07/5/2009 về việc xác định giá tính thuế liên quan đến sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ có ý kiến đề nghị cân nhắc việc cộng tiền phí chuyển giao công nghệ, chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ vào giá tính thuế nhập khẩu do có thể dẫn đến việc hạn chế hoạt động chuyển giao công nghệ vào Việt Nam.
Từ những nội dung nêu trên, quan điểm xử lý của Bộ Tài chính là không cộng thêm khoản phí bản quyền (phí kỳ vụ) liên quan đến Hợp đồng Li-xăng sử dụng nhãn hiệu, bằng sáng chế, Hợp đồng Li-xăng về sử dụng “bí quyết kỹ thuật” vào trị giá tính thuế nhập khẩu mà tiếp tục áp dụng tính thuế nhà thầu theo quy định hiện hành.
Để có cơ sở giải quyết vấn đề, đề nghị quý Bộ nghiên cứu, có ý kiến cụ thể về vấn đề này và gửi lại Bộ Tài chính trước ngày 20/11/2009.
Cảm ơn sự phối hợp công tác của quý Bộ.
Nơi nhận: |
KT.
BỘ TRƯỞNG |