Nghị quyết 11-NQ/TW năm 2012 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011-2020 do Bộ Chính trị ban hành

Số hiệu 11-NQ/TW
Ngày ban hành 06/01/2012
Ngày có hiệu lực 06/01/2012
Loại văn bản Nghị quyết
Cơ quan ban hành Bộ Chính trị
Người ký Nguyễn Phú Trọng
Lĩnh vực Lĩnh vực khác

BỘ CHÍNH TRỊ
--------

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------------

Nghị quyết số: 11-NQ/TW

Hà Nội, ngày 06 tháng 01 năm 2012

 

NGHỊ QUYẾT

VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN THỦ ĐÔ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2011-2020

I- Tình hình và kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị

1- Thủ đô Hà Nội có bề dày lịch sử và truyền thống cách mạng vẻ vang, là địa danh tiêu biểu cho truyền thống "Văn hiến-Anh hùng-Hòa bình-Hữu nghị" của dân tộc Việt Nam. Từ ngày có Đảng đến nay, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô Hà Nội đã luôn phát huy truyền thống đoàn kết, gương mẫu, đi đầu, có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mười năm qua, thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) "Về nhiệm vụ, phương hướng phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ 2001-2010" trong bối cảnh vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức chung của cả nước, Hà Nội còn thực hiện chủ trương lớn về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô theo Nghị quyết 15 của Quốc hội khoá XII và nhiều nhiệm vụ quan trọng kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội. Với sự nỗ lực phấn đấu và quyết tâm cao, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội đã quán triệt, vận dụng, tổ chức thực hiện nghiêm túc, sáng tạo các chủ trương, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, đạt được nhiều thành tựu nổi bật:

Kinh tế liên tục tăng trưởng cao; cơ cấu kinh tế dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp chuyển dịch tích cực ngày càng rõ nét; quy mô kinh tế được mở rộng; kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và đô thị phát triển theo hướng hiện đại. Bộ mặt thành phố, kể cả khu vực đô thị và vùng nông thôn có nhiều thay đổi. Đặc biệt, việc tập trung giải quyết thành công một khối lượng lớn công việc trong quá trình hợp nhất, mở rộng địa giới hành chính, đã đưa Thủ đô Hà Nội bước vào thời kỳ phát triển mới, với một tầm vóc lớn hơn.

Văn hóa-xã hội tiếp tục phát triển, đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là về xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh; giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá tiêu biểu của Thăng Long-Hà Nội; mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, y tế; gắn kết khoa học-công nghệ với sản xuất, kinh doanh; giải quyết việc làm, giảm tỉ lệ hộ nghèo và bảo đảm an sinh xã hội. Đời sống của nhân dân Thủ đô, đặc biệt là ở vùng nông thôn, xa trung tâm được cải thiện rõ rệt.

Hệ thống chính trị được củng cố, tăng cường; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền được nâng cao, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân có những đổi mới, hướng về cơ sở.

Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự được tăng cường, bảo vệ an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước, các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại diễn ra trên địa bàn.

Quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng; việc tổ chức thành công Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội đã để lại ấn tượng tốt đẹp, nâng cao hơn vai trò, vị thế của Thủ đô.

Sau hơn 25 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị, Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Thủ đô Hà Nội đã vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu "Thủ đô Anh hùng," ba lần được tặng thưởng Huân chương Sao vàng và được tổ chức UNESCO vinh danh là "Thành phố vì hoà bình"…

2- Tuy nhiên, tình hình chung của Hà Nội vẫn còn một số hạn chế, yếu kém:

Kinh tế phát triển chưa toàn diện; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nhìn chung còn thấp. Các nguồn lực về vốn, nhân lực và công nghệ trên địa bàn chưa được khai thác tốt. Kinh tế tri thức, hàm lượng chất xám làm nên giá trị gia tăng cao của các ngành kinh tế chủ lực chưa thể hiện rõ nét. Sức lan tỏa của một "trung tâm kinh tế lớn," một "động lực kinh tế" trong vùng đồng bằng Sông Hồng và cả nước còn hạn chế.

Công tác quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị còn nhiều hạn chế. Việc xây dựng và phê duyệt một số quy hoạch chung còn chậm; hệ thống hạ tầng đô thị và nông thôn còn lạc hậu và chưa đồng bộ. Nhiều vấn đề tồn tại trong quản lý quy hoạch, đất đai, trật tự xây dựng, xử lý úng ngập, ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, tăng dân số cơ học… chậm được khắc phục, gây nhiều bức xúc cho nhân dân.

Kết quả xây dựng văn hóa người Hà Nội thanh lịch, văn minh chưa tương xứng với yêu cầu Thủ đô ngàn năm văn hiến; vai trò của một trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế và giao dịch quốc tế của vùng và cả nước chưa được phát huy đầy đủ.

Khoảng cách giàu-nghèo giữa thành thị và nông thôn còn lớn.

An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định; tệ nạn xã hội vẫn diễn biến phức tạp.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chưa đồng bộ. Vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của một số tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp xã, phường, doanh nghiệp còn thấp; thái độ, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa cao. Cải cách hành chính chưa đạt được yêu cầu đề ra.

Sự phân công, phân cấp, phối hợp của các bộ, ngành Trung ương đối với Thủ đô Hà Nội có mặt còn chưa hợp lý, chưa thường xuyên và kịp thời.

3- Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do việc thể chế hóa Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị còn chậm; cơ chế, chính sách có liên quan đến Hà Nội chưa đồng bộ, nhiều mặt chưa phù hợp với yêu cầu, đặc điểm và nhiệm vụ của Thủ đô; phân công, phân cấp, phối hợp giữa Trung ương và thành phố chưa tốt; những tác động xấu của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, của biến đổi khí hậu và thiên tai… Công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện Nghị quyết của thành phố trên một số lĩnh vực còn hạn chế, thiếu năng động, quyết liệt, thậm chí có mặt còn trì trệ; sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành Trung ương với thành phố còn nhiều hạn chế, vướng mắc.

II- Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011-2020

1- Trong 10 năm tới, trên cơ sở vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ thành phố, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội và Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội, huy động tối đa sức mạnh tổng hợp cả về vật chất và tinh thần của Thủ đô và cả nước xây dựng và phát triển Thủ đô Hà Nội xứng đáng với vai trò là trung tâm chính trị-hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng Sông Hồng và cả nước; có kinh tế-xã hội phát triển toàn diện, bền vững, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, chính trị-xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phấn đấu để Hà Nội thực sự là địa phương đi đầu, về đích sớm 1-2 năm sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; đóng góp ngày càng quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2- Để thực hiện được phương hướng cơ bản nêu trên, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:

2.1- Tiếp tục xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế tri thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của kinh tế Thủ đô. Coi trọng sử dụng công nghệ hiện đại, tăng nhanh tỉ lệ nội địa hoá, có nhiều sản phẩm với hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao. Tập trung phát triển đồng bộ, vững chắc các yếu tố thị trường và các loại thị trường, nhất là những loại thị trường mới được hình thành, như bất động sản, chứng khoán, lao động, khoa học-công nghệ...

Tiếp tục chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ-công nghiệp-nông nghiệp. Khuyến khích, phát triển các loại hình dịch vụ có trình độ và chất lượng cao; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xuất-nhập khẩu, du lịch. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp công nghệ cao; nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp mũi nhọn. Phát triển nông nghiệp bền vững, hiệu quả theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, sinh thái, sạch, công nghệ cao; đẩy nhanh tiến trình xây dựng nông thôn mới, phấn đấu 2/3 số xã đạt tiêu chí vào năm 2020. Phấn đấu mức tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 2011-2020 đạt khoảng 11,5-12%/năm; GDP bình quân đầu người đến năm 2020 khoảng 7.100-7.500 USD/năm; xứng đáng là trung tâm kinh tế lớn, trung tâm tài chính - ngân hàng hàng đầu của vùng và cả nước.

Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Trọng tâm là nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đổi mới, nâng cao hiệu quả và vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các tổng công ty nhà nước trực thuộc thành phố; phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã; khuyến khích, phát triển kinh tế tư nhân, các loại hình doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp theo quy hoạch và quy định của pháp luật.

2.2- Tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý quy hoạch bảo đảm đồng bộ, hiện đại, ổn định và lâu dài. Trên cơ sở các quy hoạch chung đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đẩy nhanh việc xây dựng các quy hoạch chi tiết, phân khu chức năng, ngành, lĩnh vực và địa phương.

Huy động tối đa mọi nguồn lực tạo bước đột phá về tăng cường đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông và hạ tầng kỹ thuật khung làm cơ sở để đẩy nhanh tiến trình xây dựng Thủ đô văn minh, hiện đại. Tập trung đầu tư để cơ bản hoàn thành việc cải tạo hệ thống giao thông khu vực nội đô vào năm 2015; sớm hoàn thành các dự án tuyến đường vành đai thành phố; triển khai nhanh các dự án giao thông trên cao, đường sắt đô thị, các công trình ngầm gắn với phát triển vận tải hành khách công cộng bằng các hình thức vận tải hiện đại và tổ chức quản lý giao thông khoa học. Đẩy nhanh tiến độ cải tạo và nâng cấp hệ thống cung cấp điện, cấp, thoát nước thành phố.

[...]