CÔNG ƯỚC
QUỐC TẾ
ĐỂ
THỐNG NHẤT MỘT SỐ QUY TẮC VỀ VẬN ĐƠN ĐƯỜNG BIỂN, KÝ TẠI BRUSSELS NGÀY 25/8/1924
Ðiều 1:
Trong công
ước này, những từ sau được dùng theo nghĩa trình bày dưới đây:
a. "Người
chuyên chở" gồm người chủ tàu hoặc người thuê tàu ký kết một hợp đồng
vận tải với người gửi hàng.
b. "Hợp
đồng vận tải" chỉ áp dụng cho những hợp đồng vận tải được thể hiện
bằng một vận đơn hoặc một chứng từ sở hữu tương tự trong chừng mực chứng từ đó
liên quan đến chuyên chở hàng hoá bằng đường biển; nó cũng dùng cho vận đơn hay
chứng từ tương tự như đã nói trên được phát hành theo một hợp đồng thuê tàu kể
từ khi vận đơn ấy điều chỉnh quan hệ giữa người chuyên chở và người cầm vận đơn.
c. "Hàng
hoá" gồm của cải, đồ vật, hàng hoá, vật phẩm bất kỳ loại nào, trừ súc
vật sống và hàng hoá theo hợp đồng vận tải được khai là chở trên boong và thực
tế được chuyên chở trên boong.
d. "Tàu"
dùng để chỉ bất kỳ loại tàu nào dùng vào việc chuyên chở hàng hoá bằng đường
biển.
e. "Chuyên
chở hàng hoá" bao gồm khoảng thời gian từ lúc xếp hàng xuống tàu đến
lúc dỡ hàng ấy khỏi tàu.
Ðiều 2:
Trừ những quy
định của Ðiều 6, theo mỗi hợp đồng vận tải hàng hoá bằng đường biển,
người chuyên chở chịu trách nhiệm như quy định dưới đây liên quan đến việc xếp,
chuyển dịch, lưu kho, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ hàng.
Ðiều 3:
1.Trước và
lúc bắt đầu hành trình, người chuyên chở phải có sự cần mẫn đáng kể:
a.Làm cho tầu
có đủ khả năng đi biển.
b. Biến chế,
trang bị và cung ứng thiết bị cho tàu.
c.Làm cho các
hầm, phòng lạnh và phòng phát lạnh và tất cả các bộ phận khác của con tầu dùng
vào công việc chuyên chở hàng hóa, thích ứng và an toàn cho việc tiếp nhận,
chuyên chở và bảo quản hàng hoá.
2.Trừ những
quy định của Ðiều 4, người chuyên chở phải tiến hành một cách thích hợp
và cẩn thận việc xếp, chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, coi giữ, chăm sóc và dỡ
những hàng hoá được chuyên chở.
3.Sau khi
nhận trách nhiệm về hàng hóa, người chuyên chở hoặc thuyền trưởng hoặc đại lý
của người chuyên chở sẽ, theo yêu cầu của người gửi hàng, cấp cho họ một vận
đơn đường biển, trong đó, ngoài những chi tiết khác, có ghi:
a.Những ký mã
hiệu chính cần thiết để nhận biết hàng hoá như tài liệu bằng văn bản do người
gửi hàng cung cấp trước lúc bắt đầu xếp hàng, với điều kiện là những ký mã hiệu
này phải được in và thể hiện rõ ràng bằng một cách nào khác lên trên hàng hoá
không đóng bao bì hoặc lên trên những hòm kiện chứa hàng hoá đó để cho những ký
mã hiệu đó trong điều kiện bình thường vẫn đọc được cho đến khi kết thúc hành
trình.
b.Số kiện, số
chiếc hoặc số lượng hay trọng lượng tuỳ từng trường hợp, như người gửi hàng đã
cung cấp bằng văn bản.
c.Trạng thái
và điều kiện bên ngoài của hàng hoá:
Tuy nhiên
người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở không buộc phải
kê hay ghi trên vận đơn những ký mã hiệu, số hiệu, số lượng hay trọng lượng mà
họ có cơ sở hợp lý để nghi ngờ là không thể hiện đúng hàng hoá thực tế được
tiếp nhận hoặc họ đã không có phương pháp hợp lý để kiểm tra.
4. Một vận đơn
như vậy là bằng chứng hiển nhiên về việc người chuyên chở đã nhận những hàng
hoá mô tả trong vận đơn phù hợp với đoạn 3 (điểm a, b, c).
5. Người gửi
hàng được coi như đã đảm bảo cho người chuyên chở, vào lúc xếp hàng, sự chính
xác của mã hiệu, số hiệu, số lượng và trọng lượng do họ cung cấp và người gửi
hàng sẽ bồi thường cho người chuyên chở về mọi mất mát, hư hỏng và chi phi phát
sinh từ sự không chính xác của các chi tiết đó. Quyền của người chuyên chở đối
với những khoản bồi thường như vậy tuyệt nhiên không hạn chế trách nhiệm cuả
anh ta theo hợp đồng vận tải đối với bất kỳ người nào khác ngoài người gửi hàng.
6. Trừ khi có
thông báo bằng văn bản về những mất mát hay hư hỏng đó gửi cho người chuyên chở
hay đại lý người chuyên chở tại cảng dỡ hàng trước hoặc vào lúc trao hàng cho
người có quyền nhận hàng theo hợp đồng vận tải, việc trao hàng như vậy là bằng
chứng hiển nhiên của việc giao hàng của người chuyên chở như mô tả trên vận đơn
đường biển.
Nếu mất mát
và hư hỏng là không rõ rệt thì thông báo phải gửi trong vòng 3 ngày kể từ ngày
giao hàng.
Thông báo
bằng văn bản không cần gửi nữa nếu tình trạng hàng hoá, trong lúc nhận hàng, đã
được giám định và kiểm tra đối tịch.
Trong mọi
trường hợp, người chuyên chở và tàu sẽ không chịu trách nhiệm về mất mát hay hư
hỏng nếu việc kiện cáo không được đưa ra trong vòng một năm kể từ ngày giao
hàng hoặc kể từ ngày đáng lẽ phải giao hàng.
Trường hợp có
mất mát, hư hại thực sự hay cảm thấy có mất mát hư hại, người chuyên chở và
người nhận hàng sẽ tạo mọi điều kiện cho nhau để kiểm tra và kiểm đếm hàng hoá.
7. Sau khi
hàng đã được xếp xuống tàu, vận đơn do người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại
lý của người chuyên chở cấp phát cho người gửi hàng, nếu người gửi hàng yêu
cầu, sẽ là "vận đơn đã xếp hàng", với điều kiện là trước đó, nếu
người gửi hàng đã nhận một chứng từ có giá trị sở hữu về hàng hoá thì họ phải
hoàn lại chứng từ đó để đổi lấp "vận đơn đã xếp hàng". Tuỳ sự
lựa chọn của người chuyên chở, trên vận đơn đó, người chuyên chở, thuyền trưởng
hoặc đại lý của người chuyên chở có thể ghi tên tàu hoặc những tàu đã xếp những
hàng hoá đó và ngày hoặc những ngày đã xếp hàng taị cảng xếp hàng và khi đã ghi
như thế, nếu có đủ nội dung ghi trong mục 3, Ðiều 3 thì nhằm mục đích
của Ðiều này, vận đơn đó sẽ được coi như "vận đơn đã xếp hàng".
8. Bất cứ
điều khoản giao ước hay thoả thuận nào trong một hợp đồng vận tải làm giảm nhẹ
trách nhiệm của người chuyên chở hay tàu về mất mát, hư hỏng của hàng hoá hoặc
liên quan đến hàng hoá do sơ suất, lỗi lầm hay không làm tròn nghĩa vụ quy định
trong Ðiều này hoặc làm giảm bớt trách nhiệm so với quy định của Công ước này
đều vô giá trị và không có hiệu lực. Việc dành lợi ích về bảo hiểm cho người
chuyên chở hoặc một điều khoản tương tự sẽ được coi như một điều khoản giảm nhẹ
trách nhiệm cho người chuyên chở.
Ðiều 4:
1. Người
chuyên chở và tàu không chịu trách nhiệm về mất mát hay hư hỏng do tàu không đủ
khả năng đi biển gây nên trừ khi tình trạng đó là do thiếu sự cần mẫn thích
đáng của người chuyên chở trong việc làm cho tàu có đủ khả năng đi biển và đảm
bảo cho tàu được biên chế, trang bị và cung ứng thích hợp và làm cho các hầm
tàu, phòng lạnh và phát lạnh và tất cả các bộ phận khác của tàu dùng để chở
hàng, thích hợp và an toàn cho việc tiếp nhận, chuyên chở và bảo quản hàng hoá
phù hợp với những quy định của Ðiều 3 đoạn 1. Một khi có mất mát hay hư
hỏng hàng hoá do tàu không đủ khả năng đi biển thì người chuyên chở hay bất cứ
người nào khác muốn được miễn trách nhiệm theo quy định của điều này có nhiệm
vụ chứng minh đã có sự cần mẫn thích đáng.
2.Cả người
chuyên chở và tàu không chịu trách nhiệm về những mất mát hư hỏng hàng hoá phát
sinh và gây ra bởi:
a. Hành vi,
sơ suất hay khuyết điểm của thuyền trưởng, thuỷ thủ, hoa tiêu hay người giúp
việc cho người chuyên chở trong việc điều khiển hay quản trị tàu.
b. Cháy, trừ
khi do lỗi lầm thực sự hay hàng động cố ý của người chuyên chở gây ra.
c. Những tai
hoạ, nguy hiểm hoặc tai nạn trên biển hay sông nước.
d.Thiên tai.
e. Hành động
chiến tranh.
f. Hành động
thù địch.
g. Bắt giữ
hay kiềm chế của vua chúa, chính quyền hay nhân dân hoặc bị tịch thu theo pháp
luật.
h.Hạn chế vì
kiểm dịch.
i. Hành vi
hay thiếu sót của người gửi hàng hay chủ hàng, của đại lý hay đại diện của họ.
j. Ðình công
hay bế xưởng, đình chỉ hay cản trở lao động bộ phận hay toàn bộ không kể vì lý
do gì.
k.Bạo động và
nổi loạn.
l. Cứu hay
mưu toan cứu sinh mệnh và tài sản trên biển.
m. Hao hụt
thể tích hay trọng lượng hoặc bất kỳ mất mát hư hỏng nào khác xảy ra do nội tỳ,
phẩm chất hay khuyết tật của hàng hoá.
n. Bao bì
không đầy đủ.
o.Thiếu sót
hay sự không chính xác về ký mã hiệu.
p.Những ẩn tỳ
không phát hiện được dù đã có sự cần mẫn thích đáng
q. Mọi nguyên
nhân khác không phải do lỗi lầm thực sự hay cố ý của người chuyên chở cũng như
không phải do sơ suất hay lỗi lầm của đại lý hay người làm công của người
chuyên chở, nhưng người muốn được hưởng quyền miễn trách nhiệm này phải chứng
minh không phải lỗi lầm thực sự hay cố ý của người chuyên chở hoặc sơ suất, lỗi
lầm của đại lý hay người làm công của người chuyên chở đã góp phần vào mất mát
hay hư hỏng đó.
3. Người gửi
hàng sẽ không chịu trách nhiệm về những mất mát hay thiệt hại gây ra cho người
chuyên chở hay tàu do bất kỳ nguyên nhân nào nếu không phải do hành vi, lỗi lầm
hay sơ suất của người gửi hàng, của đại lý hay người làm công của họ gây nên.
4. Bất kỳ sự
đi chệch đường nào để cứu trợ hay mưu toan cứu trợ sinh mệnh hoặc tài sản trên
biển họăc bất kỳ một sự đi chệch đường hợp lý nào khác sẽ không coi là vi phạm
Công ước này hay hợp đồng vận tải và người chuyên chở sẽ không chịu trách nhiệm
về bất kỳ mất mát hay hư hỏng nào xảy ra từ việc đó.
5. Trong bất
kỳ trường hợp nào, người chuyên chở và tàu cũng không chịu trách nhiệm về những
mất mát hay hư hỏng của hàng hoá vượt qua số tiền 100 bảng Anh một kiện hay một
đơn vị hoặc một số tiền tương đương bằng ngoại tệ khác, trừ khi người gửi hàng
đã khai tính chất và trị giá hàng hoá trước khi xếp hàng xuống tàu và lời khai
đó có ghi vào vận đơn.
Lời khai, nếu
có ghi vào vận đơn, sẽ là bằng chứng hiền nhiên nhưng không có tính chất ràng
buộc và quyết định đối với người chuyên chở.
Người chuyên
chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở và người gửi hàng, có thể
thoả thuận với nhau một số tiền tối đa, khác với số tiền ghi trong đoạn này
miễn là số tiền tối đa đã thoả thuận này không được thấp hơn con số nói trên.
Trong bất kỳ
trường hợp nào người chuyên chở và tàu cũng không chịu trách nhiệm về mất mát
hay hư hỏng hàng hoá nếu người gửi hàng đã cố tình khai sai tính chất hoặc giá
trị hàng hoá đó trên vận đơn.
6.Hàng hoá có
tính chất dễ cháy, dễ nổ hay nguy hiểm mà nếu biết tính chất và đặc điểm của
nó, người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của người chuyên chở sẽ không
nhận chở, có thể được người chuyên chở đưa lên bờ, vào bất kỳ lúc nào, trước
khi đến cảng dỡ hàng, ở bất kỳ nơi nào hoặc tiêu huỷ hay để làm mất tác hại mà
không phải bồi thường gì cả và người gửi hàng sẽ chịu trách nhiệm về mọi tổn
hại và chi phí do hậu quả trực tiếp hay gián tiếp của việc gửi hàng hoá ấy. Nếu
người chuyên chở đã biết tính chất của những hàng hoá ấy và đã đồng ý cho xếp
xuống tàu và sau đó những hàng hoá ấy trở thành mối nguy hiểm cho tàu hay cho
hàng hoá chở trên tàu, thì cũng tương tự như trên hàng hoá đó có thể được người
chuyên chở đưa lên bờ hoặc tiêu huỷ hoặc làm mất tác hại, và người chuyên chở
không chịu trách nhiệm gì trừ trường hợp tổn thất chung, nếu có.
Ðiều 5:
Người chuyên
chở được tự do từ bỏ toàn bộ hay một phần những quyền hạn và miễn trách hoặc
tăng thêm trách nhiệm và nghĩa vụ của mình như Công ước này đã quy định miễn là
việc từ bỏ hay tăng thêm đó có ghi trên vận đơn cấp cho người gửi hàng.
Những quy
định trong Công ước này không áp dụng cho các hợp đồng thuê tàu nhưng nếu những
vận đơn được cấp phát trong trường hợp một chiếc tàu chở hàng theo một hợp đồng
thuê tàu thì những vận đơn này vẫn phải theo những điều khoản của Công ước nào.
Trong những Quy tắc này, không có quy định nào được coi là cấm đưa vào vận đơn
bất kỳ một điều khoản hợp pháp nào về tổn thất chung.
Ðiều 6:
Mặc dù có
những quy định như trên, những người chuyên chở, thuyền trưởng hay đại lý của
người chuyên chở và người gửi hàng, sẽ, đối với những hàng hoá riêng biệt, vẫn
có quyền tự do cùng nhau ký kết bất kỳ hợp đồng nào với bất kỳ điều kiện nào về
trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hoá đó và về quyền hạn và miễn
trách của người chuyên chở về những hàng hoá đó hoặc liên quan đến nghĩa vụ
cung cấp tàu có khả năng đi biển miễn là quy định đó không trái với trật tự công
cộng hoặc liên quan đến sự chăm sóc hoặc cần mẫn của đại lý hay những người làm
công của người chuyên chở trong việc xếp, chuyển dịch, sắp xếp, chuyên chở, coi
giữ, chăm sóc và dỡ những hàng hoá chuyên chở bằng đường biển miễn là trong
trường hợp này không được cấp phát một vận đơn nào và những điều kiện đã thoả
thuận phải được ghi vào một biên lai và biên lai này là một chứng từ không lưu
thông được và có ghi rõ như thế.
Một hợp đồng
ký kết như thế sẽ có đủ hiệu lực pháp lý.
Tuy nhiên
phải hiểu rằng điều khoản này không được áp dụng đối với những lô hàng hoá mua
bán thông thường mà chỉ áp dụng đối với những lô hàng khác mà tính chất và điều
kiện của tài sản cũng như hoàn cảnh và điều kiện, điều khoản chuyên chở chứng
tỏ sự cần thiết phải có một sự thoả thuận đặc biệt.
Ðiếu 7:
Không có quy
định nào trong Công ước này ngăn cản người chuyên chở hoặc người gửi hàng đưa
vào hợp đồng các quy định, điều kiện, điều khoản bảo lưu hoặc miễn trách có
liên quan đến trách nhiệm của người chuyên chở hay tàu đối với mất mát hay hư
hỏng của hàng hoá hoặc có liên quan tới việc coi giữ chăm sóc và chuyển dịch
hàng hoá trước khi xếp lên tàu và sau khi dỡ hàng hoá khỏi tàu.
Ðiều 8:
Những quy
định trong Công ước này không ảnh hưởng đến quyền hạn, nghĩa vụ của người chuyên
chở theo bất kỳ luật lệ hiện hành nào có liên quan đến giới hạn trách nhiệm của
các chủ tàu biển.
Ðiều 9:
Ðơn vị tiền
tệ nói trong Công ước này là tính theo giá trị vàng. Những nước thành viên của
Công ước không dùng đồng bảng Anh làm đơn vị tiền tệ dành cho mình quyền quy
đổi những số tiền bằng bảng Anh nói trên sang thứ tiền nước mình theo số tròn.
Những luật lệ
quốc gia có thể dành cho người mắc nợ quyền trả nợ bằng tiền tệ nước mình theo
tỷ giá hối đoái vào ngày tàu đến cảng dỡ hàng đó.
Ðiều
10:
Những quy
định trong Công ước này sẽ áp dụng cho mọi vận đơn phát hành tại bất kỳ nước
nào là thành viên của Công ước.
Ðiều
11:
Sau một thời
gian không quá 2 năm kể từ ngày ký kết Công ước, Chính phủ nước Bỉ sẽ liên hệ
với các chính phủ các bên ký kết đã tự tuyên bố sẵn sàng phê chuẩn Công ước
nhằm quyết định là Công ước có hiệu lực hay không. Các văn bản phê chuẩn sẽ
được lưu giữ tại Brussels vào ngày do các Chính phủ nói trên thoả thuận ấn
định. Văn bản gửi lưu giữ đầu tiên được ghi vào một biên bản có chữ ký của các
đại diện các quốc gia tham gia và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Bỉ.
Việc gửi các
văn bản phê chuẩn tiếp sau được thực hiện bằng cách gửi văn bản thông báo tới
Chính phủ nước Bỉ, kèm theo văn bản phê chuẩn.
Bản sao có
chứng nhận hợp thức của biên bản về việc gửi lưu giữ văn bản phê chuẩn đầu
tiên, của văn bản thông báo nói trong đoạn trên cũng như của văn bản phê chuẩn
gửi kèm, sẽ được Chính phủ nước Bỉ gửi ngay qua đường ngoại giao tới các quốc
gia đã ký công ước này hoặc đã tham gia Công ước này. Trong các trường hợp nêu
ở đoạn trên, Chính phủ Bỉ cũng đồng thời sẽ báo cho các nứơc đó biết ngày đã
nhận được văn bản thông báo.
Ðiều
12:
Các quốc gia
không ký kết Công ước có thể tham gia Công ước dù có cử đại diện dự Hội nghị
quốc tế Brussels hay không.
Một quốc gia
muốn tham gia Công ước sẽ gửi thông báo bằng văn bản về ý định của mình cho
Chính phủ Bỉ, gửi cho Chính phủ này chứng từ xin tham gia, chứng từ này sẽ được
lưu giữ trong văn khố lưu trữ của Chính phủ nước Bỉ.
Chính phủ Bỉ
sẽ gửi ngay đến tất cả các quốc gia đã ký hoặc tham gia Công ước một bản sao có
chứng nhận hợp thức của văn bản thông báo và biên bản tham gia, ghi rõ ngày
Chính phủ nước Bỉ công nhận văn bản thông báo.
Ðiều
13:
Các bên ký
kết Công ước, vào lúc ký kết, phê chuẩn hay tham gia có thể tuyên bố rằng việc
họ chấp nhận Công ước này không bao gồm một số hoặc tất cả các lãnh địa tự trị,
hay thuộc địa, sở hữu địa hải quan, đất bảo hộ của họ hoặc lãnh thổ thuộc chủ
quyền và kiểm soát của họ và sau đó họ có thể thay mặt bất cứ lãnh địa tự trị,
thuộc địa... hay lãnh thổ của họ để xin tham gia riêng vào Công ước. Họ cũng có
thể tuyên bố bãi ước riêng rẽ theo những quy định của Công ước đối với các lãnh
địa tự trị, thuộc địa... nói trên.
Ðiều
14:
Công ước sẽ
có hiệu lực, trong trường hợp các quốc gia đã tham gia đã tham gia vào đợt đầu
gửi lưu giữ văn bản phê chuẩn, sau một năm sau ngày ký biên bản ghi nhớ việc
gửi lưu giữ này. Ðối với các quốc gia phê chuẩn tiếp sau hoặc tuyên bố tham gia
và cả trong những trường hợp Công ước có hiệu lực sau đó theo Ðiều 13 thì Công
ước sẽ có hiệu lực sau 6 tháng kể từ khi các văn bản thông báo quy định ở đoạn
2 Ðiều 11 và đoạn 2 Ðiều 12 được Chính phủ nước Bỉ tiếp nhận.
Ðiều
15:
Trường hợp
một trong các quốc gia ký kết muốn bãi miễn Công ước này, việc bãi ước sẽ được
thông báo bằng văn bản cho Chính phủ nước Bỉ. Chính phủ này sẽ gửi ngay một bản
sao của thông báo đó có chứng nhận hợp thức cho các quốc gia khác báo cả ngày
đã nhận được thông báo.
Việc tuyên bố
bãi ước chỉ thực hiện đối với quốc gia đưa ra thông báo và chỉ có hiệu lực sau
thời hạn một năm kể từ khi thông báo gửi tới Chính phủ nước Bỉ.
Ðiều
16:
Bất cứ một
quốc gia ký kết nào cũng có quyền yêu cầu triệu tập một hội nghị mới nhằm xem
xét việc bổ sung cho Công ước.
Một quốc gia
muốn thực thi quyền hạn đó phải thông báo ý định cho các quốc gia khác thông
qua Chính phủ nước Bỉ, Chính phủ này sẽ thu xếp việc triệu tập hội nghị.
Làm tại Brussels, một bản duy
nhất vào ngày 25 tháng 8 năm 1924.