THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
41-TTg
|
Hà
Nội,, ngày 05 tháng 05 năm 1964
|
CHỈ THỊ
VỀ CÔNG TÁC TÍN DỤNG VÀ TIỀN TỆ Ở NÔNG THÔN
Từ ngày hòa bình lập lại đến
nay, công tác tín dụng và tiền tệ ở nông thôn đã góp phần tích cực vào công cuộc
khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, xóa bỏ về căn bản nạn cho vay nặng
lãi, xây dựng quan hệ vay mượn mới ở nông thôn.
Tuy vậy, đối chiếu với
phương hướng trong các nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 và lần thứ 8 của Trung
ương Đảng và so với yêu cầu của nhiệm vụ phát triển sản xuất, đẩy mạnh lưu
thông, tăng cường quản lý kinh tế tài chính hện nay, công tác tín dụng và tiền
tệ ở nông thôn làm chưa tốt. Vốn cho vay chưa thật tập trung vào các mặt chính
của sản xuất có hiệu quả kinh tế cao. Những chế độ và nguyên tắc tín dụng xã hội
chủ nghĩa chưa được thực hiện đầy đủ, gây nên tư tưởng ỷ lại vào vốn của Nhà nước
và làm lãng phí vốn trong các hợp tác xã. Công tác thu nợ còn rất yếu, nợ quá hạn
ngày càng tăng, làm khó khăn cho việc tập trung vốn phục vụ tái sản xuất mở rộng.
Công tác huy động vốn, quản lý quỹ xã và quỹ hợp tác xã cũng còn yếu; việc huy
động và sử dụng vốn chưa thống nhất vào hệ thống tín dụng của Ngân hàng Nhà nước,
Kế hoạch tín dụng, tiền tệ chưa thực hiện đầy đủ. Các hình thức cho vay tự do lấy
lãi vẫn còn trong nông dân và trong một số hợp tác xã sản xuất. Các hợp tác xã
tín dụng (và quỹ tín dụng ở miền núi) nói chung chưa được củng cố, chưa thực sự
làm cánh tay đắc lực của cơ quan Ngân hàng ở nông thôn.
Để bổ khuyết tình hình nói trên,
căn cứ vào quyết định của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp thường vụ ngày
13-11-1963, Thủ tướng Chinh phủ chỉ thị một số điểm cơ bản dưới đây về công tác
tín dụng và tiền tệ ở nông thôn, nhằm góp phần phát triển nhanh chóng lực lượng
sản xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới ở nông thôn, làm cho nông
nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững mạnh cho việc thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà.
I. VỀ NGUỒN VỐN.
Tín dụng ở nông thôn có hai loại:
tín dụng dài hạn và tín dụng ngắn hạn, do đó nguồn vốn cũng chia ra nguồn vốn
tín dụng dài hạn và nguồn vốn tín dụng ngắn hạn.
Nguồn vốn dài hạn trong năm gồm
có:
- Vốn do ngân sách Nhà nước cấp,
- Số nợ dài hạn thu hồi được.
- Một phần số dư vững chắc tăng
thêm trong năm của vốn tích lũy, vốn khấu hao cơ bản của các hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp gửi ở cơ quan Ngân hàng.
Vốn tín dụng dài hạn dùng để bổ
sung vốn cơ bản của hợp tác xã sản xuất nhằm tăng thêm tài sản cố định cần thiết
cho việc thực hiện tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn vốn tín dụng ngắn hạn gồm
có:
- Số dư tiết kiệm và tiền gửi tư
nhân ở nông thôn do Ngân hàng huy động tăng thêm trong năm,
- Số dư tiền gửi của các hợp tác
xã và các cơ quan, đoàn thể ở xã, do cơ quan Ngân hàng quản lý,
- Số nợ ngắn hạn thu hồi được
trong khu vực kinh tế hợp tác xã.
Vốn tín dụng ngắn hạn nhằm bổ
sung cho vốn lưu động của các hợp tác xã sản xuất để dùng vào chi phí sản xuất:
trồng trọt, chăn nuôi,chế biến sản phẩm nông nghiệp, làm nghề phụ … Cơ quan
Ngân hàng có nhiệm vụ điều hòa nguồn vốn tín dụng ngắn hạn trong khu vực kinh tế
hợp tác.
Vốn ở nông thôn phải được quản
lý chặt chẽ theo mấy điểm sau đây:
1. Để thực hiện nguyên tắc
tập trung tín dụng, chỉ cơ quan Ngân hàng và hợp tác xã tín dụng được cơ quan
Ngân hàng ủy nhiệm dưới sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính các cấp và sự giúp đỡ
của các tổ chức quần chúng, có trách nhiệm huy động và tập trung mọi nguồn tiền
tạm thời chưa dùng đến trong nông dân, trong các tổ chức kinh tế, các cơ quan,
đoàn thể ở xã để phân phối lại theo kế hoạch tín dụng thống nhất của Ngân hàng
Nhà nước.
Các hợp tác xã nông nghiệp, dưới
sự hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước có thể động viên để tăng thêm vốn của xã
viên để tăng thêm vốn mở rộng sản xuất, như đầu tư dài hạn vào các công trình
thủy lợi, khoanh vùng đắp bờ, xây dựng cơ sở chăn nuôi, chế biến nông sản…
nhưng không được trả lãi cao hơn lãi xuất tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng và
khi trả chỉ được trích một phần khấu hao, tích lũy, chứ không được lấy vốn của
Ngân hàng và các quỹ khác của hợp tác xã để trả số nợ này. Cũng có thể dùng một
số sản phẩm không hoặc chưa nằm trong diện thu mua của Nhà nước mà các hợp tác
xã sản xuất ra được để trả nợ nếu được người cho vay đồng ý (thí dụ: gạch,
ngói, vôi…), tuyệt đối không được dùng lương thực, thực phẩm và các loại nông sản
chủ yếu… để trả nợ làm ảnh hưởng đến kế hoạch thu mua của Nhà nước.
2. Các hợp tác xã nông
nghiệp, nghề cá, nghề muối, thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán cần mở tài khoản
và gửi các loại vốn cố định (quỹ tích lũy, khấu hao, cổ phần công hữu), vốn lưu
động và các quỹ chuyên dùng khác vào cơ quan Ngân hàng hoặc hợp tác xã tín dụng
được cơ quan Ngân hàng ủy nhiệm. Khi rút tiền ra để sử dụng, các hợp tác xã sản
xuất nên phân biệt các loại vốn khác nhau để sử dụng cho đúng mục đích của nó.
Ủy ban hành chính các cấp, các tổ
chức của Ngân hàng Nhà nước, các hợp tác xã tín dụng được Ngân hàng ủy nhiệm,
có trách nhiệm kiểm tra và hướng dẫn, giúp đỡ về tài vụ cho các hợp tác xã nhằm
sử dụng tốt các loại vốn tự có và vốn đi vay vào việc phát triển sản xuất là
chính, tránh đầu tư vào những việc chưa cần thiết cho sản xuất, hết sức tranh
chi tiêu lãng phí, triệt để chống lợi dụng, tham ô.
II. VỀ CHO VAY, THU NỢ
Cơ quan Ngân hàng và các hợp tác
xã tín dụng cho vay vốn, cũng chư các tổ chức vay vốn đều phải thực hiện đầy đủ
ba nguyên tắc cơ bản của tín dụng xã hội chủ nghĩa sau đây:
1. Vốn vay phải sử dụng đúng mục
đích, đúng đối tượng ghi trong kế hoạch và chỉ được nhận tiền dần dần theo mức
thực hiện kế hoạch.
2. Vốn vay phải được trả lại cả
vốn và lãi đúng thời hạn quy định.
3. Vốn vay phải được bảo đảm bằng
giá trị vật chất tương đương hoặc phải sử dụng vào việc tạo ra của cải vật chất
thực sự.
Muốn được vay vốn, các hợp tác
xã sản xuất phải có những điều kiện sau đây:
1. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối
với Nhà nước (nộp thuế, bán sản phẩm, trả nợ…).
2. Lập được kế hoạch sản xuất, kế
hoạch tài vụ, kế hoạch vay vốn và trả nợ.
3. Có vốn cố định (vốn cổ phần,
vốn khấu hao, vốn tích lũy) và vốn lưu động tự có gửi vào Ngân hàng hoặc Hợp
tác xã tín dụng được cơ quan Ngân hàng ủy nhiệm.
4. Có sổ sách kế toán rõ ràng.
Cơ quan Ngân hàng cần hướng dẫn,
giúp đỡ các hợp tác xã cố gắng nâng cao dần trình độ quản lý để bảo đảm đạt được
bốn điều kiện trên đây.
Vốn cho vay phải tập trung vào
những yêu cầu chính, vào các vùng cần thiết và có điều kiện sản xuất, đúng với
phương hướng sản xuất của từng địa phương, từng hợp tác xã sản xuất nhằm bảo đảm
vốn cho vay ra thực sự phục vụ sản xuất, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Thời hạn cho vay tùy theo đối tượng
sử dụng vốn vay mà quy định: thời hạn cho vay dài hạn, nói chung là từ trên một
năm đến năm năm, riêng về thiết bị lớn có thể tới bảy năm, trường hợp cá biệt
có thể kéo dài thêm, nhưng tối đa không quá mười năm. Thời hạn cho vay ngắn hạn
là một chu kỳ sản xuất tối đa không quá 12 tháng.
Thu nợ:
a) Đối với nợ vay dài hạn, các hợp
tác xã sản xuất phải trích khấu hao và một phần tích lũy để trả dần theo khế ước.
b) Đối với nợ vay ngắn hạn, các
hợp tác xã sản xuất phải trích phần hoàn lại chi phí sản xuất thu hoạch từng vụ
để trả đủ.
c) Trường hợp gặp thiên tai, mất
mùa nặng thực sự không có khả năng trả đủ nợ thì cơ quan Ngân hàng xét gia thêm
hạn trả nợ cho sát.
Sau khi cho vay, cơ quan Ngân
hàng và Hợp tác xã tín dụng được cơ quan Ngân hàng ủy nhiệm phải thường xuyên
theo dõi, kiểm tra việc sử dụng vốn. Đối với những hợp tác xã sản xuất không chấp
hành đúng kỷ luật tín dụng như: dùng vốn sai mục đích, dây dưa không trả nợ hoặc
tham ô, lợi dụng vốn vay… thì tùy theo từng trường hợp cụ thể, cơ quan Ngân
hàng có trách nhiệm phải thi hành kỷ luật tín dụng như: thu hồi vốn trước thời
hạn, áp dụng lãi suất cao hơn, tạm đình chỉ cho vay, hoặc đưa truy tố trước
pháp luật.
III. VỀ QUẢN LÝ TIỀN TỆ.
Các hợp tác xã nông nghiệp, nghề
cá, nghề muối, nghề thủ công nghiệp hợp tác xã mua bán, và các cơ quan đoàn thể
ở xã cần gửi tiền mặt chưa dùng đến thuộc tất cả các loại quỹ vào cơ quan Ngân
hàng hoặc Hợp tác xã tín dụng được cơ quan Ngân hàng ủy nhiệm, và chịu sự quản
lý tiền mặt của cơ quan Ngân hàng. Những khoản thanh toán giữa Nhà nước và hợp
tác xã và giữa các tổ chức có mở tài khoản tại Ngân hàng với hợp tác xã sẽ dần
dần thực hiện bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt; khi cần tiền mặt,
hợp tác xã mới rút tiền mặt để chi.
Cơ quan Ngân hàng các cấp và Hợp
tác xã tín dụng phải tổ chức tập trung tiền mặt kịp thời, tiến hành thanh toán
nhanh chóng, và bảo đảm trả tiền mặt dễ dàng, thuận tiện, không chậm trễ cho
các đơn vị rút tiền.
IV. KẾ HOẠCH HÓA CÔNG TÁC TÍN DỤNG VÀ TIỂN TỆ Ở NÔNG THÔN
Cũng như các mặt công tác khác
trong sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hóa, công tác tín dụng và tiền tệ ở
nông thôn phải đi vào kế hoạch. Do đó, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước ở các cấp, các
tổ chức thuộc hệ thống Ngân hàng Nhà nước, các hợp tác xã sản xuất đều phải lập
kế hoạch tín dụng dài hạn, kế hoạch tín dụng ngắn hạn và kế hoạch tiền mặt hàng
năm hàng quý theo quy định của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và do Ngân hàng Nhà nước
hướng dẫn cụ thể.
Các Ủy ban hành chính các cấp cần
có trách nhiệm chỉ đạo chặt chẽ các khâu lập và xét duyệt kế hoạch, phổ biến chỉ
tiêu kế hoạch và tổ chức thực hiện kết hoạch tín dụng và tiền tệ ở nông thôn.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÔNG TÁC TÍN DỤNG VÀ TIỀN TỆ Ở NÔNG
THÔN.
Để bảo đảm được nhiệm vụ quản lý
công tác tín dụng và tiền tệ ở nông thôn, phục vụ kịp thời cho yêu cầu sản xuất
và đời sống của nhân dân đang ngày càng phát triển, cần chú ý phát triển và củng
cố các tổ chức Ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng. Đi đôi với việc cùng các tổ chức
đã có, Ngân hàng Nhà nước cần bàn bạc với Ủy ban hành chính các tỉnh có kế hoạch
cụ thể mở rộng mạng lưới phòng giao dịch ở nông thôn hơn nữa. Đồng thời cần căn
cứ vào tình hình cụ thể từng nơi và khả năng hoạt động của từng Hợp tác xã tín
dụng mà phân công và hướng dẫn cho các hợp tác xã tín dụng giúp đỡ Ngân hàng
huy động và quản lý vốn, cho vay và thu nợ, nhằm làm cho các tổ chức tín dụng
phát huy được vai trò và khả năng thực sự làm cánh tay đắc lực của Ngân hàng ở
nông thôn. Các cấp chính quyền địa phương, các Chi nhánh, Chi điếm Ngân hàng
Nhà nước phải tăng cường giúp đỡ các Hợp tác xã tín dụng củng cố tổ chức, mở rộng
màng lưới ủy nhiệm tiết kiệm trong các đội, tổ sản xuất để đẩy mạnh công tác
huy động vốn, thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ và thường xuyên kiểm
tra hoạt động của hợp tác xã tín dụng. Đối với cán bộ thường trực nhất là cán bộ
kế toán của Hợp tác xã tín dụng không nên thay đổi công tác luôn vì cần phải đi
sâu vào chuyên môn và tích lũy kinh nghiệm công tác (trường hợp cần thiết cần
điều động cán bộ này đi công tác khác thì phải bàn bạc nhất trí trước với cơ
quan Ngân hàng và phải bố trí người khác có khả năng thay thế) Ngân hàng Nhà nước
cần căn cứ vào doanh số cho vay, thu nợ và số dư huy động vốn của mỗi cơ sở hợp
tác xã tín dụng mà định mức phụ cấp hợp lý cho cán bộ thường trực của Hợp tác
xã tín dụng. Mức phụ cấp này tối đa không cao hơn mức phụ cấp hàng tháng của
cán bộ thường trực của Đảng ủy và Ủy ban hành chính xã. Ủy ban hành chính xã cần
dành cho cán bộ thường trực của Hợp tác xã tín dụng những quyền lợi về vật chất
và tinh thần như đối với các cán bộ nửa thoát ly ở xã.
Công tác tín dụng và tiền tệ ở
nông thôn chiếm một vị trí rất quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp phát triển
kinh tế và văn hóa ở nông thôn, nó không phải là vấn đề thuần túy nghiệp vụ của
một nghành. Do đó, Ủy ban hành chính các cấp có trách nhiệm chỉ đạo tốt các
công tác huy động vốn, sử dụng vốn, cho vay, thu nợ và quản lý tiền tệ trong địa
phương.
Bộ tài chính có trách nhiệm nghiên
cứu cải tiến chế độ kế toán tài vụ của các hợp tác xã kiểm tra và giúp đỡ các hợp
tác xã quản lý và sử dụng tốt các loại vốn.
Các cơ quan thuộc các nghành
Nông nghiệp, Công nghiệp, Thương nghiệp, Khai hoang, Thủy lợi, Thủy sản, Vật
tư, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà
nước trong các chủ trương, chính sách cụ thể và trong các hoạt động thường
xuyên ở nông thôn, nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn và tập
trung vốn để thức đẩy sản xuất phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa và nâng cao đời sống của nhân dân.
Ông Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể việc thi hành chỉ thị này.
|
K.T.THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Hùng
|