BỘ
CHÍNH TRỊ
********
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------------
|
Số:
36/1998/CT-TW
|
Hà
Nội, Ngày 25 tháng 6 năm 1998
|
CHỈ THỊ
VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG THỜI KỲ CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
Bảo vệ môi trường là một vấn đề sống
còn của đất nước, của nhân loại; là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với
cuộc đấu tranh xoá đói giảm nghèo ở mỗi nước, với cuộc đấu tranh vì hoà bình và
tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Đảng và Nhà nước ta đã có những
chủ trương, biện pháp giải quyết các vấn đề môi trường. Hoạt động bảo vệ môi
trường của nước ta đã đạt được những kết quả bước đầu, đã xuất hiện những gương
người tốt, việc tốt về bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, việc bảo vệ môi trường
ở nước ta hiện chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn mới. Nhìn chung môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm và
suy thoái, có nơi nghiêm trọng. Việc thi hành pháp luật bảo vệ môi trường chưa
nghiêm minh. Ý thức tự giác bảo vệ và giữ gìn môi trường công cộng chưa trở
thành thói quen trong cách sống của đại bộ phận dân cư.
Rừng tiếp tục bị tàn phá nặng nề,
khoáng sản bị khai thác bừa bãi. Đất đai bị xói mòn và thoái hoá; đa dạng sinh
học trên đất liền và dưới biển đều bị suy giảm. Nguồn nước mặt và nước ngầm
đang ngày càng bị ô nhiễm và cạn kiệt, vùng biển đã bắt đầu bị ô nhiễm. Nhiều
đô thị và khu công nghiệp bị ô nhiễm do nước thải, khí thải, chất thải rắn...
Điều kiện vệ sinh môi trường ở nông thôn quá thấp kém, tiêu chuẩn an toàn lao động
và an toàn thực phẩm bị vi phạm. Các sự cố môi trường ngày càng gia tăng.
Việc gia tăng dân số, việc di
dân tự do diễn ra ồ ạt và không kiểm soát được, việc khai thác có tính chất huỷ
diệt các nguồn lợi sinh vật trên cạn và dưới nước, việc phấn đấu thực hiện một
số chỉ tiêu quan trọng liên quan đến môi trường mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề
ra cho năm 2000 như: phủ xanh 40% diện tích rừng, bảo đảm 80% dân số được cung
cấp nước sạch, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm... đang
là những thách thức gay gắt đối với nước ta hiện nay.
Các vấn đề môi trường toàn cầu,
như biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ô-zôn, dâng cao mực nước biển, ô nhiễm
xuyên biên giới, suy giảm chất lượng nước của các dòng sông lớn và các thảm rừng
chung biên giới, hiện tượng mưa a-xít, hiện tượng ElNino... ngày càng ảnh hưởng
xấu đến môi trường nước ta.
Tình trạng trên đây do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chính:
- Các cấp uỷ đảng và chính quyền
chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, chưa kịp thời có kế hoạch và biện pháp bảo vệ
môi trường, chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường.
- Chính phủ, các Bộ ngành, các địa
phương chậm trễ và kém hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện Luật bảo vệ môi
trường và "Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn
1991 - 2000"; các văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường vừa thiếu vừa chồng
chéo, lại không đồng bộ; đầu tư cho môi trường còn thấp.
- Việc tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường cho toàn Đảng và toàn dân, toàn quân
chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò của các đoàn thể, các tổ
chức chính trị xã hội, các hội quần chúng, các phong trào quần chúng về bảo vệ
môi trường.
- Công tác quản lý nhà nước về
môi trường ở cả trung ương và địa phương chưa đáp ứng với yêu cầu.
II
Để góp phần
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Bộ
Chính trị yêu cầu các cấp, các ngành cần đổi mới nhận thức, tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo công tác bảo vệ môi trường, nắm vững và quán triệt các mục tiêu, quan
điểm, giải pháp sau:
A - MỤC
TIÊU:
Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường, phục
hồi và cải thiện môi trường của những nơi, những vùng đã bị suy thoái, bảo tồn
đa dạng sinh học, từng bước nâng cao chất lượng môi trường ở các khu công nghiệp,
đô thị và nông thôn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Phấn đấu đến năm 2000 phải đạt được các mục tiêu về bảo vệ
môi trường mà Đại hội VIII của Đảng đã đề ra.
B - CÁC
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN:
- Bảo vệ môi trường là sự nghiệp
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
- Bảo vệ môi trường là một nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm
phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
- Coi phòng ngừa và ngăn chặn ô
nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và
bảo tồn thiên nhiên.
- Kết hợp phát huy nội lực với
tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
C - ĐỂ ĐẠT
ĐƯỢC MỤC TIÊU TRÊN CẦN TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP SAU ĐÂY:
1 - Thường
xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các phong trào quần
chúng bảo vệ môi trường.
Đưa các nội
dung bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục của tất cả các bậc học trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
Tạo điều kiện và khuyến khích để
người dân thường xuyên nhận được các thông tin về môi trường như một biện pháp
cơ bản bảo vệ môi trường.
Động viên hướng dẫn nhân dân thực
hiện nếp sống sạch, hợp vệ sinh, giữ gìn vệ sinh công cộng.
Tiếp tục đẩy mạnh các phong trào
quần chúng bảo vệ môi trường như phong trào Xanh - Sạch - Đẹp, Vườn - Ao - Chuồng
(VAC), Vường - Ao - Chuồng - Rừng (VACR), Tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường,
gia đình văn hoá, vệ sinh tốt ...
2- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản
pháp luật bảo vệ môi trường, ban hành các chính sách về phát triển kinh tế phải
gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành Luật bảo vệ môi trường.
Rà soát và ban hành đồng bộ các
văn bản dưới luật, bảo đảm nâng cao hiệu lực của luật.
Ban hành các chính sách về thuế,
tín dụng nhằm khuyến khích áp dụng các công nghệ sạch.
Thể chế hoá việc đóng góp chi
phí bảo vệ môi trường.
Thể chế hoá việc phối hợp giải
quyết các vấn đề phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường: trong các kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội phải có các chỉ tiêu, biện pháp bảo vệ môi trường.
Tính toán hiệu quả kinh tế, so sánh các phương án phải tính toán cả chi phí về
bảo vệ môi trường.
3- Chủ động phòng chống ô nhiễm
và sự cố môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái môi trường.
Thực hiện nghiêm chỉnh quy định
của Luật bảo vệ môi trường về báo cáo đánh giá tác động môi trường trong việc
xét duyệt cấp phép các quy hoạch, các dự án đầu tư. Nếu báo cáo đánh giá tác động
môi trường không được chấp nhận thì không cho thực hiện các quy hoạch, dự án
này.
Đối với các cơ
sở sản xuất kinh doanh đang hoạt động, căn cứ vào kết quả đánh giá tác động môi
trường, các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố tổ chức phân loại các cơ sở gây ô
nhiễm và có kế hoạch xử lý phù hợp: cơ sở nào gây ô nhiễm quá mức cho phép, thì
phải quy định thời gian xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép, cơ sở nào gây
ô nhiễm nghiêm trọng nhất thì kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc di chuyển địa
điểm.
- Áp dụng công nghệ sạch, ít phế
thải, tiêu hao ít nguyên liệu và năng lượng.
Các đô thị,
các khu công nghiệp phải sớm có và thực hiện tốt phương án xử lý chất thải, ưu
tiên xử lý chất thải độc hại, chất thải bệnh viện.
Chính phủ khẩn chương thông qua
kế hoạch quốc gia ứng cứu sự cố tràn dầu trên biển, kế hoạch nghiên cứu khắc phục
hậu quả chất độc hoá học dùng trong chiến tranh đối với môi trường và con người.
4- Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên.
Áp dụng các biện pháp kinh tế và
luật pháp cần thiết tăng nhanh tỷ lệ che phủ rừng, thực hiện nghiêm chỉnh lệnh
đóng cửa rừng tự nhiên, bảo vệ rừng đi đôi với việc giải quyết định canh định
cư, giải quyết việc làm và cung cấp đầy đủ lương thực cho dân sinh sống với rừng;
mở rộng diện tích các khu bảo tồn động thực vật hoang dã, các vườn quốc gia bảo
vệ đa dạng sinh học.
Nhanh chóng chấm dứt tình trạng
khai thác khoáng sản bừa bãi gây lãng phí tài nguyên, huỷ hoại rừng, suy thoái
đất và ô nhiễm môi trường.
Chấm dứt ngay việc sử dụng các
biện pháp có tính huỷ diệt (như điện, xung điện, chất nổ, chất đốt...) để khai
thác nguồn lợi thuỷ hải sản.
Tăng cường các biện pháp quản lý
tổng hợp nguồn nước theo lưu vực sông, khẩn trương nghiên cứu các phương án đối
phó với nguy cơ thiếu nước trong những năm tới.
5- Tăng cường
và đa dạng hoá đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường.
Có chính sách và cơ chế huy động
tối đa mọi nguồn lực từ các ngành, các thành phần kinh tế và của người dân để bảo
vệ môi trường.
Ngay từ kế hoạch nhà nước năm
1999, Chính phủ, các ngành và các địa phương cần có khoản mục kế hoạch về bảo vệ
môi trường với kinh phí để thực hiện kế hoạch này.
Chính phủ quy định mức đầu tư
cho bảo vệ môi trường đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Khuyến khích mọi tổ chức và cá
nhân trong và ngoài nước đầu tư cho bảo vệ môi trường của Việt Nam.
6- Tăng cường công tác quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến địa phương.
Nâng cấp cơ quan quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường ở trung ương, tạo điều kiện cần thiết về tổ chức, nhân lực,
cơ sở vật chất kỹ thuật để cơ quan này đủ sức thực hiện tốt chức năng quản lý
môi trường, kết hợp chặt chẽ với việc tư vấn hoạch định các chủ chương chính
sách về phát triển bền vững, sử dụng hợp lý các loại tài nguyên thiên nhiên, đặc
biệt là tài nguyên rừng, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và nguồn lợi
thuỷ sản.
Tăng cường năng lực quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường cho các địa phương.
7- Đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo cán bộ, chuyên gia về lĩnh vực bảo vệ
môi trường.
Xây dựng mạng lưới quan trắc môi
trường, đánh giá và dự báo diễn biến môi trường của cả nước.
Hình thành hệ thống cơ sở nghiên
cứu khoa học và công nghệ môi trường.
Tổ chức hệ thống đào tạo cán bộ,
chuyên gia thuộc lĩnh vực môi trường với các cấp trình độ, các loại ngành nghề
đồng bộ, đáp ứng được yêu cầu của công tác bảo vệ môi trường.
Chú trọng hình thành và phát triển
ngành công nghệ môi trường phù hợp với điều kiện nước ta.
8- Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo
vệ môi trường.
Mở rộng hợp tác khu vực và quốc
tế về bảo vệ môi trường.
Tham gia các chương trình hợp
tác có mục tiêu để giải quyết các nhiệm vụ bảo vệ môi trường chung với các quốc
gia có liên quan (chung biên giới, chung vùng biển, vùng trời, chung dòng
sông...).
III
Trong năm
1998, các cấp uỷ đảng và và chính quyền từ Trung ương đến cơ sở mở đợt tuyên
truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm quán triệt chỉ thị
này, thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi trường nêu trong chỉ thị.
Ban cán sự Đảng Chính phủ chỉ đạo
việc xây dựng chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường, kiện
toàn bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Trung ương và địa phương và
tăng cường đầu tư kinh phí cho công tác bảo vệ môi trường.
Các cấp uỷ đảng
và chính quyền cần lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp việc kết hợp kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội với công tác bảo vệ môi trường, phát động phong trào quần
chúng rộng rãi, liên tục tham gia công tác bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh
công cộng, xây dựng nếp sống sạch, đẹp, văn minh trên địa bàn mình.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải không
ngừng nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường và gương mẫu, tích cực tham gia mọi
hoạt động bảo vệ môi trường, chủ động lãnh đạo quần chúng bảo vệ môi trường.
Ban Khoan giáo
Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường giúp Bộ Chính
trị theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chỉ thị này và định kỳ báo cáo
tình hình, đề xuất ý kiến chỉ đạo.