THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
278-TTg
|
Hà
Nội, ngày 01 tháng 10 năm 1980
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 26-NQ/TU VỀ CẢI TIẾN CÔNG TÁC
PHÂN PHỐI LƯU THÔNG
Quán triệt Nghị quyết 26-NQ/TU của
Bộ chính trị về cải tiến công tác phân phối lưu thông, Hội đồng Chính phủ đã
ban hành một số văn bản để cụ thể hoá Nghị quyết đó và nhằm vào những trọng tâm
sau đây:
- Trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất,
tăng cường thu mua, nắm chắc nguồn hàng trong tay Nhà nước.
- Tăng cường quản lý thị trường,
phát triển thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, đầy lùi nạn đầu cơ,
buôn lậu.
- Bảo đảm cung cấp những hàng
thiết yếu cho công nhân, viên chức và trợ cấp cho những người có nhiều khó
khăn.
- Tăng thu, tiết kiệm chi, phấn
đấu thăng bằng ngân sách, tăng cường quản lý tiền mặt.
Chỉ thị này nêu ra những việc cần
chú ý trong quá trình thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TU từ nay cho đến đầu năm
1981.
1. Phải ra sức
đẩy mạnh sản xuất, thu mua nông sản và hàng công nghiệp, coi đây là khâu quyết
định để bảo đảm đời sống của nhân dân lao động, nhất là những người ăn lương của
Nhà nước.
Thi hành các quyết định của Hội
đồng Chính phủ về ổn định nghĩa vụ bán nông sản, lợn thịt, trâu bò thịt, về thống
nhất kinh doanh thuốc lá... các ngành quản lý thu mua và cung ứng tư liệu sản
xuất, tư liệu tiêu dùng, các Uỷ ban nhân dân địa phương cần nắm chắc các điểm
sau đây:
a) Phải kết hợp việc thu mua với
việc cung ứng tư liệu sản xuất phục vụ và thúc đẩy sản xuất, đặc biệt là ở các
vùng sản xuất tập trung, chuyên canh, đồng thời trong quan hệ mua bán với người
sản xuất phải thể hiện các nguyên tắc sau đây:
- Vùng sản xuất tập trung theo
quy hoạch và Kế hoạch Nhà nước có lợi hơn sản xuất lẻ tẻ;
- Hợp tác xã, tập đoàn có lợi
hơn hộ cá thể;
- Mua bán với Nhà nước theo hợp
đồng có hợp đồng có lợi hơn mua bán theo giá thoả thuận.
b. Phải kết hợp việc thi hành chế
độ nghĩa vụ bán sản phẩm với việc vận dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ để Nhà nước
nắm được đại bộ phận nông sản hàng hoá.
Trước hết phải thực hiện tốt chế
độ ổn định nghĩa vụ và hợp đồng hai chiều; đồng thời vận dụng linh hoạt chính
sách mua bán theo giá thoả thuận ở những nơi cần thiết. Trong việc mua bán theo
giá thoả thuận, phải quản lý chặt chẽ định mức và tỷ lệ hàng hoá trao đổi và
giá thanh toán.
Bộ quản lý thu mua cùng với Uỷ
ban Vật giá Nhà nước hướng dẫn cụ thể các tỉnh, thành phố định rõ tỷ lệ trao đổi
và giá thanh toán đối với từng vùng (gồm vài tỉnh hoặc một số huyện có điều kiện
tương tự) nhằm tránh sự chênh lệch không hợp lý giữa các địa phương giáp ranh
và có điều kiện tương tự.
Trong việc mua bán theo giá thoả
thuận phải có sự chỉ đạo chặt chẽ, tránh kích giá thị trường lên cao, làm thiệt
hại cho Nhà nước hoặc cho nông dân; đồng thời phải quản lý chặt chẽ thị trường,
không cho phép thương nhân kinh doanh những mặt hàng Nhà nước thống nhất quản
lý, nhất là ở các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh theo quy hoạch và Kế hoạch
Nhà nước.
Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ
có liên quan quy định ngay trong tháng 10 năm 1980 chế độ hạch toán mua nông sản
và bán tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng theo giá thoả thuận.
c. Từ nay, cần hạn chế việc dùng
hàng tiêu dùng để ký hợp đồng hai chiều hoặc để trao đổi lấy nông sản bằng cách
hàng đổi hàng. Cùng với việc huy động nông sản theo chế độ nghĩa vụ và hợp đồng
hai chiều, các ngành quản lý thu mua và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố phải
tuỳ theo điều kiện sản xuất và khả năng nông sản hàng hoá mà tổ chức thu mua
theo giá thoả thuận và trả bằng tiền; đồng thời bán hàng công nghệ phẩm theo
giá thoả thuận để có tiền mua theo giá thoả thuận.
Cơ quan cung ứng vật tư hàng hoá
phải nắm chắc thời vụ sản xuất và nhu cầu của nhân dân để kịp thời đưa vật tư
hàng hoá về các địa phương phục vụ sản xuất và đời sống.
Ngân hàng Nhà nước phải chủ động
điều hoà quỹ tiền mặt giữa các vùng, đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền mặt cho thu
mua theo thời vụ.
d. Tất cả xí nghiệp quốc doanh,
không kể Trung ương hay địa phương, đều phải giao tất cả sản phẩm cho thương
nghiệp quốc doanh. Những trạm, trại nghiên cứu, nếu có sản phẩm đem bán, cũng
phải bán cho thương nghiệp quốc doanh. Để khuyến khích phát triển sản xuất, các
xí nghiệp quốc doanh, ngoài phần được Nhà nước cung cấp để sản xuất theo kế hoạch,
được phép trực tiếp mua ở thị trường những nông sản nguyên liệu không thuộc loại
độc quyền kinh doanh và của những người sản xuất đã hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng
để sản xuất thêm ngoài phần sản xuất do Nhà nước cung ứng nguyên liệu. Đối với
những mặt hàng sản xuất thêm trong trường hợp nói trên, xí nghiệp được hạch
toán phần giá mua cao và giá thành, đồng thời thương nghiệp được phép và có nhiệm
vụ tổ chức mua những sản phẩm này với giá cao hơn trên nguyên tắc bảo đảm cho
xí nghiệp thu hồi được chi phí sản xuất, có mức lãi hợp lý, và đem bán với giá
đảm bảo kinh doanh, người tiêu dùng có thể chấp nhận.
Các cơ quan, đoàn thể không được
liên hệ trực tiếp với các xí nghiệp quốc doanh để mua các sản phẩm nằm trong kế
hoạch thu mua, phân phối cung ứng của Nhà nước; giữa các xí nghiệp quốc doanh với
nhau cũng không được móc ngoặc trao đổi các loại sản phẩm nói trên.
Các địa phương (tỉnh, huyện, xã)
không được dùng vật tư, hàng hoá trong diện Nhà nước thống nhất quản lý kinh
doanh để trao đổi với nhau nếu chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ giao nộp
sản phẩm cho Trung ương.
e. Các Bộ quản lý thu mua (Bộ
Lương thực và thực phẩm, Bộ Nội thương...) phải cùng Bộ Nông nghiệp hướng dẫn
thực hiện chính sách thu mua đối với từng loại cây, con và có phương án cụ thể
phối hợp với các ngành cung ứng vật tư, hàng hoá để tổ chức tốt việc cung ứng
phục vụ sản xuất kết hợp với thu mua ở những vùng trọng điểm.
2. Phải ra sức
tăng cường quản lý thị trường, thi hành một cách đồng bộ các biện pháp kinh tế
và hành chính.
a. Trong những tháng trước mắt,
phải nắm vững những thị trường trọng điểm, mặt hàng trọng điểm và tập trung giải
quyết cho được yêu cầu chủ yếu là ngăn chặn nạn buôn lậu từ nước ngoài vào, loại
trừ việc buôn bán trái phép những mặt hàng Nhà nước thống nhất quản lý, trước hết
phải nghiêm cấm buôn bán vàng bạc, ngoại hối, xăng dầu, phân bón, thuốc lá, những
nguyên liệu quí và nhập khẩu, các loại máy móc, phụ tùng chính do các tổ chức
kinh tế Nhà nước sản xuất hay nhập khẩu; những nông sản hàng hoá chủ yếu ở các
vùng sản xuất tập trung. Bộ Nội thương và các Bộ quản lý các loại hàng trong
danh mục mặt hàng Nhà nước thống nhất quản lý cần ban hành ngay các thông tư,
chỉ thị hướng dẫn thi hành đối với từng loại mặt hàng.
b. Các Bộ và Uỷ ban nhân dân các
tỉnh, thành phố cần tích cực và khẩn trương mở rộng hoạt động kinh doanh của
thương nghiệp quốc doanh, thương nghiệp hợp tác xã để đấu tranh với tư thương,
chống các hoạt động buôn bán trái phép, ngăn chặn các hoạt động đầu cơ của tư
thương, tích cực dành chủ động trong việc quản lý thị trường để phục vụ tốt hơn
sản xuất và đời sống của nhân dân lao động.
c. Các ngành, các cấp phải khẩn
trương thi hành những biện pháp hành chính nghiêm ngặt, đặc biệt chú ý:
- Tăng cường thu thuế công
thương nghiệp để góp phần tổ chức và quản lý thị trường, cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với công thương nghiệp tư nhân, đấu tranh chống đầu cơ, buôn lậu;
- Thực hiện nghiêm chỉnh điều lệ
đăng ký kinh doanh công thương nghiệp, xem đó là một cuộc điều tra cơ bản về
tình hình hoạt động kinh doanh của tư nhân và là một cuộc đấu tranh để sắp xếp
lại và quản lý thị trường, phát huy vai trò lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối
với khu vực công thương nghiệp tập thể và cá thể;
- Tổ chức các đội kiểm soát và
quản lý thị trường ở các thành phố và các vùng tập trung nông sản hàng hoá, ở các
đầu mối giao thông để chống bọn đầu cơ buôn lậu buôn bán trái phép.
3. Phải cố gắng
đến mức cao nhất và thi hành các biện pháp một cách khẩn trương nhất nhằm bảo đảm
đời sống của công nhân, viên chức:
a. Phải quán triệt các chủ
trương, biện pháp đã được nêu trong Nghị quyết 26-NQ/TU của Bộ Chính trị, trong
đó biện pháp quan trọng hàng đầu là bảo đảm cung cấp cho công nhân, viên chức
những mặt hàng thiết yếu; việc dùng khoản điều tiết được do điều chỉnh giá những
mặt hàng đang quá bất hợp lý để bù lỗ cho thương nghiệp trong việc kinh doanh một
số loại hàng thiết yếu (mua giá thoả thuận để bán cho công nhân, cán bộ theo
giá chỉ đạo) là một trong các biện pháp rất quan trọng.
Nhà nước đang rất thiếu nông sản
(lương thực, thực phẩm...) để cung cấp cho công nhân, viên chức, trước hết là ở
các thành phố, khu công nghiệp, đồng thời cũng rất thiếu hàng công nghiệp để
đưa về nông thôn bán lấy tiền thu mua nông sản. Vì vậy, trước mắt cần kiên quyết
dành một số hàng công nghiệp tiêu dùng đưa về nông thôn bán giá cao để mua đủ
lương thực, thực phẩm cung cấp cho bộ đội, công nhân, viên chức.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Nội
thương và Bộ Lương thực và thực phẩm phải xây dựng và tách riêng quỹ hàng hoá
bán cung cấp cho công nhân, viên chức và quỹ hàng hoá dành cho thu mua nông sản
và thông báo rõ cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố biết để quản lý.
Tổng công đoàn cần giải thích
cho công nhân, viên chức hiểu rõ tình hình và chủ trương, đồng tình nhất trí với
Nhà nước trong việc tập trung giải quyết cho được vấn đề cung cấp lương thực,
thực phẩm cho các thành phố và khu công nghiệp, sẵn sàng chịu đựng thiếu thốn về
một số loại hàng công nghiệp tiêu dùng để đưa về nông thôn bán cho nông dân và
mua nông sản thực phẩm.
b. Đi đôi với việc thực hiện Quyết
định của Hội đồng Chính phủ về bảo đảm đời sống cho công nhân, viên chức, Bộ
Lao động phối hợp với các Bộ có liên quan nghiên cứu đề nghị Chính phủ ban hành
bổ sung một số chủ trương, biện pháp nhằm khuyến khích xí nghiệp tận dụng thiết
bị, lao động để làm hợp đồng bên ngoài xí nghiệp; cho phép công nhân, viên chức
làm việc ngoài giờ để vừa có thêm sản phẩm, vừa tăng thu nhập; mở rộng việc trả
lương theo sản phẩm, lương khoán và áp dụng các hình thức trả lương và tiền thưởng
thích hợp với điều kiện sản xuất của các ngành khác nhau; bổ sung, sửa đổi một
số chế độ phụ cấp nhằm khuyến khích nâng cao năng xuất lao động, hiệu suất công
tác (như phụ cấp khám bệnh ngoài giờ, dạy học thêm giờ...).
c) Việc điều chỉnh một số giá
bán lẻ hàng tiêu dùng và giá dịch vụ phải được chuẩn bị chu đáo, tiến hành thận
trọng và chỉ đạo chặt chẽ. Phải kịp thời giải thích cho công nhân, viên chức và
nhân dân, nhất là ở các thành phố, hiểu rõ chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, đập tan các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của bọn xấu và chống chiến
tranh tâm lý của địch.
Các tổ chức thương nghiệp, tài
chính ngân hàng phải phối hợp chặt chẽ trong việc thi hành chính sách hai giá
và bán hàng theo hai hệ thống có kết quả, tránh sơ hở, lợi dụng.
4. Tăng thu, tiết
kiệm chi, phấn đấu thăng bằng ngân sách và tăng cường quản lý tiền mặt.
a. Các ngành sản xuất, thu mua,
nội thương và ngoại thương phải tích cực thực hiện các biện pháp đẩy mạnh sản
xuất, thu mua và phân phối để bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
b. Các ngành, các cấp phải chỉ đạo
thực hiện khẩn trương các biện pháp tăng thu, tiết kiệm chi theo Nghị quyết số
89-CP ngày 17 tháng 3 năm 1980 của Hội đồng Chính phủ nhằm thực hiện yêu cầu của
Nghị quyết Bộ Chính trị là cơ bản thăng bằng ngân sách năm 1980 và giảm bội chi
tiền mặt.
- Đẩy mạnh thu thuế nông nghiệp,
thuế công thương nghiệp và kiên quyết thu các khoản nợ tín dụng đến hạn và quá
hạn.
- Tập trung đầu tư vào những
công trình trọng điểm, giảm chi về lao động thuê ngoài.
- Tiết kiệm chi hành chính, quốc
phòng.
- Chấn chỉnh các mặt hoạt động
nghiệp vụ ngân hàng và mở rộng mạng lưới ngân hàng, nhằm nâng cao chất lượng phục
vụ khách hàng, tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt, huy động ngày càng
nhiều những nguồn vốn nhàn rỗi của xã hội.
c. Dựa vào cuộc kiểm kê tài sản
ngày 1 tháng 9 năm 1980, phải chấn chỉnh việc quản lý tài sản (nhất là kế toán
tài sản); nắm chắc năng lực sản xuất của các ngành các địa phương và cơ sở để
làm căn cứ xây dựng kế hoạch 1981 tích cực và vững chắc, phát huy khả năng tiềm
tàng; huy động ngay các thiết bị, vật tư ứ đọng ra sử dụng.
Căn cứ kết quả kiểm kê, phải đối
chiếu tồn kho thực tế với sổ sách kế toán, tìm ra các nguyên nhân chênh lệch giữa
sổ sách và thực tế. Tăng cường quản lý tài sản Nhà nước; cảnh giác đề phòng những
phần tử xấu lợi dụng kiểm kê để hợp pháp hoá việc lấy cắp tài sản của Nhà nước.
5. Tăng cường tổ
chức chỉ đạo thực hiện.
a. Tuỳ theo chức năng của mình,
các Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải chỉ đạo thực hiện tốt các Văn bản
của Hội đồng Chính phủ đã ban hành nhằm cụ thể hoá Nghị quyết 26-NQ/TƯ của Bộ
Chính trị về cải tiến công tác phân phối, lưu thông.
Các Văn bản đó hợp thành một thể
thống nhất, phải được thực hiện đồng bộ và ăn khớp, tạo tiền đề và thúc đẩy lẫn
nhau thực hiện một bước ba mục tiêu đã nêu ra trong Nghị quyết 26-NQ/TƯ của Bộ
Chính trị.
Trong việc thực hiện Nghị quyết
của Bộ Chính trị, phải quán triệt quan điểm chính sách của Trung ương Đảng, nắm
vững trọng tâm, trọng điểm, có những giải pháp thiết thực và bước đi thích hợp,
xây dựng những kế hoạch tác chiến cụ thể. Các Bộ và Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố phải gửi những kế hoạch này lên Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15
tháng 10 năm 1980 để báo cáo.
b. Kèm theo kế hoạch và biện
pháp thực hiện, các Bộ và các địa phương phải có phương án kiện toàn tổ chức và
tăng cường đội ngũ cán bộ.
Các bộ phải phân công các đồng
chí lãnh đạo phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh trực tiếp chỉ đạo và giải
quyết những vấn đề cấp bách ở các địa bàn trọng điểm.
Những tổ chức phải chú ý tăng cường
ngay là các cơ quan thu thuế, thu mua, quản lý thị trường, ngân hàng, các tổ chức
bán lẻ và dịch vụ, thủ trường các ngành, các cấp phải phối hợp với Ban tổ chức
của Đảng để lựa chọn, điều động và bổ sung ngay cán bộ theo kịp yêu cầu của nhiệm
vụ.
Phải tổ chức nắm tình hình và
thông tin kịp thời; dự kiến những tình huống có thể xảy ra (thuận lợi cũng như
khó khăn) để chủ động xử lý, không bị động. Chú trọng tăng cường công tác kiểm
tra thực hiện ngay từ đầu để nắm tình hình triển khai Nghị quyết và rút kinh
nghiệm; trước mặt cần chú ý thanh tra việc ký hợp đồng và bán tư liệu sản xuất,
hàng tiêu dùng đổi lấy nông sản, chấn chỉnh công tác quản lý tiền, hàng của Nhà
nước.
c. Trong quá trình thi hành Nghị
quyết của Bộ Chính trị được cụ thể hoá bằng các quyết định của Hội đồng Chính
phủ, nếu có những điểm xét thấy cần sửa đổi, bổ sung, các ngành, các cấp cần
báo cáo kịp thời Thủ tướng Chính phủ xem xét; trong khi chờ đợi vẫn phải chấp
hành đúng các quyết định đã ban hành.
Các ngành, các cấp cần thực hiện
chế độ báo cáo như sau:
Các Bộ, các địa phương báo cáo
thường kỳ một tháng một lần (vào ngày cuối tháng), ngoài ra nếu có việc đột xuất
thì phải báo cáo đột xuất. Riêng các Bộ trong khối phân phối lưu thông báo cáo
mỗi tháng hai lần (vào giữa tháng và cuối tháng). Ngoài ra, Uỷ ban Vật giá Nhà
nước phải báo cáo tình hình giá cả hàng ngày tại một số địa phương trọng điểm,
Ngân hàng Nhà nước phải báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ tình hình tiền mặt hàng
tuần (vào ngày thứ 5).