Chỉ thị 24/CT.UB năm 1991 về công tác thu thuế nông nghiệp năm 1992 do tỉnh An Giang ban hành
Số hiệu | 24/CT.UB |
Ngày ban hành | 26/11/1991 |
Ngày có hiệu lực | 26/11/1991 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Tỉnh An Giang |
Người ký | Nguyễn Hữu Khánh |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí |
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 24/CT.UB |
Long Xuyên, ngày 26 tháng 11 năm 1991 |
CHỈ THỊ
VỀ CÔNG TÁC THU THUẾ NÔNG NGHIỆP NĂM 1992
Những năm qua nhất là năm 1991, công tác thu thuế nông nghiệp đã có nhiều cố gắng và đang chuyển biến tích cực. Việc lập bộ ghi thu, tổ chức lực lượng cán bộ thuế ở cơ sở cũng như gắn kế hoạch sát đúng với điều kiện canh tác, với thời vụ... có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên vẫn còn một số mặt yếu kém cần khắc phục: dây dưa nợ thuế, chiếm dụng tiền thuế, một số địa phương chủ quan thiếu tập trung chỉ đạo thực hiện thu thuế, hoặc chưa quản lý hết đối tượng và diện tích chịu thếu... làm thất thoát nguồn thu của Nhà nước.
Nhiệm vụ công tác thuế nông nghiệp năm 1992 là: thực hiện ghi thu đủ 100% (không còn miễn giảm theo Di chúc Bác), tăng cường khai thác nguồn thu, điều chỉnh hạng đất, chấm dứt tình trạng dây dưa nợ thuế, chiếm dụng tiền thuế.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên đây, UBND Tỉnh chỉ thị về công tác thu thuế nông nghiệp 1992 như sau:
1- Tổ chức kê khai diện tích tính thuế, đảm bảo diện tích lập bộ thuế năm 1992 phải tương ứng với diện tích canh tác của từng địa phương, nhất là các diện tích đất khai hoang, phục hóa đã đến hạng chịu thuế, các diện đất canh tác chưa nộp thuế đều phải được kiểm tra lại đưa hết vào tính thuế.
2- Thực hiện điều chỉnh hạng đất tính thuế cho hợp lý đối với các vùng chuyển vụ, tăng vụ, canh tác màu có thu nhập cao, đảm bảo ghi thu đúng luật thuế.
Đối với đất trồng cây lâu năm, được định giá trị sản lượng tính thuế quy thóc. Cục thuế có hướng dẫn cụ thể cho từng vùng.
3- Tập trung thu hế số thuế còn tồn đọng của năm 1991 và các năm trước. Sau khi đã được xét miễn giải theo quyết định của UBND Tỉnh, trước mắt cần thu hết phần nợ thuế sau khi đã bình nghị còn lại.
4- Tổ chức thu nộp trong mỗi vụ thu hoạch theo sát tiến độ thu hoạch của địa phương, đảm bảo đến hết ngày 30/6/1992 thu đạt 30% ghi thu toàn tỉnh, một số nơi thuế ít, địa bạn gọn cần thu dứt điểm ngay trong vụ Đông xuân.
Số thu được phải nộp vào kho bạc Nhà nước, không được chi tiêu ở các ngành, các cấp hoặc tồn đọng ở xã.
5- Chỉ tiêu thu thuế khi giao nhận phải được tổ chức ký hợp đồng trách nhiệm giữa các cấp: Tỉnh - Huyện – Xã và coi đó là trách nhiệm của chính quyền địa phương và ngành, là chỉ tiêu Pháp lệnh phải thực hiện.
6- Khen thưởng đột xuất và sơ, tổng kết kịp thời đối với những địa phương, tổ chức và cá nhân có nhiều thành tích trong công tác thuế (kể cả số bà con nông dân gương mẫu, tiêu biểu), đồng thời xử lý kịp thời các vụ vi phạm chính sách thuế, tùy theo mức độ nặng nhẹ có thể thi hành kỷ luật hành chính hoặc truy tố trước pháp luật, nhưng dù hình thức xử lý nào cũng phải thu hồi cho được tiền thuế nộp vào ngân sách Nhà nước. Đối với số thuế truy thu do khai man lậu thuế, trốn thuế, phạt nộp chậm được trích một tỷ lệ nhất định cho ngành thuế và thù lao đối với người có công thực hiện, phần còn lại cho ngân sách xã tập trung.
UBND các Huyện, Thị tổ chức thực hiện đầy đủ những chủ trương và biện pháp trên. Cục trưởng Cục thuế chịu trách nhiệm hướng dẫn và tiến hành kiểm tra thực hiện chỉ thị này.
Nơi nhận: |
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG |