NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
04/2003/CT-NHNN
|
Hà
Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2003
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT NỘI BỘ, KIỂM TOÁN NỘI
BỘ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Trong những năm gần đây, công
tác kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước đã từng bước đi vào nề
nếp, ổn định và có chất lượng, tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các
đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước. Thủ trưởng các đơn vị đã nhận thức được ý
nghĩa và tầm quan trọng của công tác kiểm soát nội bộ nên đã có sự quan tâm và
tổ chức triển khai tốt hoạt động kiểm soát nội bộ tại đơn vị mình. Vụ Tổng kiểm
soát với chức năng là đơn vị tham mưu cho Thống đốc trong lĩnh vực kiểm soát,
kiểm toán nội bộ Ngân hàng Nhà nước đã thường xuyên chỉ đạo nghiệp vụ, kiểm
soát nội bộ tại các đơn vị, chi nhánh và làm tốt công tác kiểm toán nội bộ, đảm
bảo cho các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước tuân thủ đúng pháp luật, chấp hành
tốt các chế độ chính sách của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước, hạn chế rủi ro thất
thoát tài sản, nâng cao trách nhiệm của từng đơn vị và mỗi cá nhân trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ. Cán bộ làm công tác kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ
tại các đơn vị, chi nhánh cũng đã có nhiều nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ được
giao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đã đạt được, thời gian qua công tác kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ Ngân
hàng Nhà nước cũng đã bộc lộ một số tồn tại: Một số đơn vị còn xem nhẹ công tác
tự kiểm tra, kiểm soát nội bộ, dẫn đến việc chưa tuân thủ đúng quy định của
pháp luật, cơ chế chính sách của Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước, chưa chấp hành
tốt quy chế, quy trình nghiệp vụ; Công tác kiểm tra của cán bộ cấp trên, đặc biệt
là cấp trên trực tiếp đối với công việc của cấp dưới chưa đầy đủ thường xuyên;
Trách nhiệm tự kiểm soát của cán bộ đối với công việc chưa cao, việc kiểm tra,
kiểm soát công việc lẫn nhau của cán bộ chưa được chú trọng; Một số nghiệp vụ
tiềm ẩn rủi ro cao nhưng chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời, đầy đủ hoặc chưa
thực hiện nghiêm túc các quy định về đảm bảo an toàn nên đã dẫn đến vi phạm, có
khả năng xảy ra thất thoát tài sản như: vi phạm nguyên tắc bảo mật trong quản
lý và sử dụng mật khẩu truy cập chương trình thanh toán chuyển tiền điện tử
NHNN, chương trình tin học ứng dụng trong nghiệp vụ kho quỹ, vi phạm các quy định
an toàn, chế độ ra vào kho quỹ. Tại một số đơn vị, chi nhánh, Thủ trưởng đơn vị,
Giám đốc chi nhánh không quan tâm đúng mức và chưa trực tiếp chỉ đạo công tác
kiểm soát nội bộ nên đã hạn chế kết quả hoạt động kiểm soát nội bộ của đơn vị.
Để kịp thời khắc phục những tồn
tại trên, nâng cao chất lượng công tác kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ Ngân
hàng Nhà nước trong thời gian tới, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ thị:
1. Thủ trưởng
các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao tổ chức
triển khai công tác kiểm soát nội bộ tại đơn vị mình đầy đủ, thường xuyên, có
hiệu quả theo quy định tại Chương II, Quy chế kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ
Ngân hàng Nhà nước ban hành theo Quyết định 486/2003/QĐ-NHNN ngày 19/5/2003 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, cơ chế chính
sách của Nhà nước, quy chế, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước, ngăn ngừa
những rủi ro có thể xảy ra trong tất cả các mặt hoạt động tại đơn vị. Thủ trưởng
đơn vị, Giám đốc chi nhánh trực tiếp phụ trách công tác kiểm soát nội bộ và chịu
trách nhiệm trước Thống đốc về chất lượng hoạt động kiểm soát nội bộ tại đơn vị
mình.
2. Thủ trưởng
các đơn vị, Giám đốc chi nhánh phải xây dựng môi trường tự kiểm soát đảm bảo an
toàn hoạt động tại đơn vị, bao gồm: Ban hành quy chế làm việc của Ban lãnh đạo
đơn vị, ủy quyền và phân cấp trách nhiệm kiểm soát nội bộ đến từng phòng ban
trong đơn vị; Phân công trách nhiệm của các phòng ban và từng cá nhân trong đơn
vị dựa trên nguyên tắc kiểm soát kép, đảm bảo mọi công việc đều có người thực
hiện và người kiểm tra lại; Lãnh đạo từng cấp phải đánh giá mức độ rủi ro của từng
nghiệp vụ để đề ra các biện pháp kiểm soát phù hợp; Phổ biến thường xuyên, kịp
thời các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước liên quan đến hoạt động ngân
hàng, quy chế, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước đến tất cả cán bộ
trong đơn vị; Quy định chế độ thông tin báo cáo nội bộ, chế độ dân chủ và công
khai tài chính trong đơn vị; Cán bộ quản lý từng cấp tại đơn vị phải thực hiện
đầy đủ quy trình kiểm tra của người lãnh đạo khi xử lý công việc;
3. Thủ trưởng
các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh,
thành phố chỉ đạo các bộ phận chức năng của đơn vị mình tổ chức thực hiện thường
xuyên, có nề nếp hoạt động tự kiểm soát trong xử lý công việc của cán bộ; Chỉnh
sửa nghiêm túc, kịp thời những tồn tại, thiếu sót phát hiện qua công tác kiểm
soát nội bộ, kiểm toán nội bộ; Không để xảy ra tình trạng lặp lại những thiếu
sót, tồn tại đã phát hiện và kiến nghị qua kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Giám đốc
Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố quy định
cụ thể thời hạn sử dụng, thay đổi chữ ký điện tử trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng.
4. Vụ Kế toán -
Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể thời hạn thay đổi mật khẩu truy cập,
mã khoá bảo mật trong thanh toán chuyển tiền điện tử nhằm nâng cao tính an
toàn, bảo mật trong quản lý và sử dụng hệ thống chuyển tiền điện tử Ngân hàng
Nhà nước.
5. Cục Công nghệ
Tin học Ngân hàng quy định cụ thể thời hạn sử dụng mã khoá bảo mật trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng; Nghiên cứu áp dụng các giải pháp kỹ thuật để mật
khẩu truy cập, mã khoá bảo mật, chữ ký điện tử tự động mất hiệu lực sau một thời
gian sử dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, buộc người có thẩm quyền cấp
phải cấp lại mã khóa bảo mật, chữ ký điện tử, buộc người sử dụng phải thay đổi
mật khẩu truy cập chương trình để đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro trong giao dịch
kế toán, thanh toán điện tử ngân hàng.
6. Cục Phát
thanh và kho quỹ có trách nhiệm thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các quy định
về đảm bảo an toàn trong hoạt động kho quỹ thường xuyên, đặc biệt là chế độ ra
vào kho quỹ. Kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện quy định quản lý và sử dụng mật
khẩu vận hành phần mềm tin học ứng dụng trong nghiệp vụ kho quỹ.
7. Vụ Tổng kiểm
soát cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với tất
cả các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo việc tuân thủ các quy định
hiện hành của Nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước, quản lý an toàn, hiệu quả tài sản
tiền vốn, tài chính tại các đơn vị và toàn hệ thống Ngân hàng Nhà nước. Phòng
(bộ phận kiểm soát nội bộ) tại các chi nhánh tỉnh, thành phố, Cục quản trị, Sở
Giao dịch, Văn phòng đại diện Ngân hàng Nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện kiểm soát nội bộ mọi lĩnh vực hoạt động của đơn vị theo phương pháp và quy
trình hướng dẫn của Vụ Tổng kiểm soát, đảm bảo cho hoạt động của đơn vị tuân thủ
đúng quy định hiện hành, ngăn ngừa hạn chế rủi ro. Trong trường hợp phát hiện
có những vi phạm nghiêm trọng gây thất thoát tài sản nhà nước, Kiểm soát viên
có quyền báo cáo trực tiếp Thống đốc thông qua Vụ Tổng kiểm soát.
8. Chỉ thị này
có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Ngân
hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm nghiên cứu quán triệt và triển khai thực hiện tốt Chỉ
thị này, báo cáo kết quả thực hiện về Ngân hàng Nhà nước Trung ương theo hướng
dẫn của Vụ Tổng kiểm soát. Vụ trưởng Vụ Tổng kiểm soát có trách nhiệm chỉ đạo,
kiểm tra và tổng hợp kết quả thực hiện của các đơn vị báo cáo Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.