Đèn và dấu hiệu của tàu thuyền mất khả năng điều động và tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động
Nội dung chính
Đèn và dấu hiệu của tàu thuyền mất khả năng điều động và tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động quy định tại Điều 27 Thông tư 19/2013/TT-BGTVT quy định việc áp dụng Quy tắc quốc tế về phòng ngừa đâm va tàu thuyền trên biển do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành, cụ thể như sau:
1. Tàu thuyền mất khả năng điều động phải trưng:
a) Hai đèn đỏ chiếu sáng khắp bốn phía, đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất;
b) Hai hình cầu hoặc hai dấu hiệu tương tự đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất;
c) Khi tàu thuyền còn trớn, ngoài các đèn quy định tại khoản này còn phải trưng các đèn mạn và đèn lái.
2. Tàu thuyền bị hạn chế khả năng điều động, không kể đến tàu thuyền đang tiến hành công việc rà phá bom mìn, phải trưng:
a) Ba đèn chiếu sáng khắp bốn phía đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất, đèn trên và đèn dưới màu đỏ, đèn giữa màu trắng;
b) Ba dấu hiệu đặt theo chiều thẳng đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ nhất, ở trên và ở dưới là dấu hiệu hình cầu, ở giữa là dấu hiệu hình thoi;
c) Khi tàu thuyền còn trớn, ngoài những đèn quy định tại điểm a khoản 2 còn phải trưng đèn cột hoặc các đèn cột, các đèn mạn và đèn lái;
d) Khi tàu thuyền neo, ngoài những đèn hay dấu hiệu được quy định tại điểm a và b khoản 2 Điều này còn phải trưng các đèn hay dấu hiệu quy định tại Điều 30 của Thông tư này.
3. Tàu thuyền máy đang tiến hành công việc lai dắt mà bị hạn chế đến khả năng của tàu lai và tàu bị lai không thể đi chệch hướng của mình thì ngoài những đèn hay dấu hiệu đã quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này còn phải trưng thêm các đèn hay dấu hiệu quy định tại khoản 1 Điều 24 của Thông tư này.
4. Tàu thuyền đang làm công tác nạo vét hay tiến hành nhưng công việc ngầm dưới nước, bị hạn chế khả năng điều động thì phải trưng các đèn và dấu hiệu được quy định tại các điểm a, b và c khoản 2 Điều này và trong trường hợp làm trở ngại việc đi lại cho tàu thuyền khác thì phải trưng thêm:
a) Hai đèn đỏ chiếu sáng khắp bốn phía hoặc treo hai hình cầu theo chiều thẳng đứng ở phía có trở ngại;
b) Hai đèn xanh lục chiếu sáng khắp bốn phía hoặc treo hai hình thoi theo chiều thẳng đứng ở phía an toàn mà tàu thuyền khác có thể qua lại;
c) Khi tàu thuyền neo phải trưng các đèn hay dấu hiệu đã quy định tại điểm a và b khoản này thay cho các đèn hay dấu hiệu quy định tại Điều 30 của Thông tư này.
5. Trong trường hợp kích thước của tàu thuyền làm công tác ngầm dưới nước thực tế không cho phép trưng tất cả các đèn và dấu hiệu quy định tại khoản 4 Điều này thì tàu thuyền đó phải trưng:
a) Ba đèn chiếu sáng khắp bốn phía treo theo chiều thẳng đứng ở nơi dễ trông thấy nhất. Đèn trên và đèn dưới màu đỏ, đèn giữa màu trắng;
b) Cờ hiệu chữ "A" theo luật tín hiệu quốc tế làm bằng tấm cứng cao ít nhất 1m. Cần phải áp dụng các biện pháp để bảo đảm nhìn thấy cờ này từ bốn phía.
6. Tàu thuyền đang tiến hành công việc rà phá bom mìn, ngoài những đèn được quy định tại Điều 23 của Thông tư này đối với tàu thuyền máy hoặc ngoài những đèn hay đấu hiệu quy định tại Điều 30 của Thông tư này đối với tàu thuyền neo, còn phải trưng ba đèn xanh lục chiếu sáng khắp bốn phía hoặc ba hình cầu phải đặt ở đỉnh cột trước, hai đèn còn lại hay hai hình cầu còn lại đặt ở đầu xà ngang của cột trước mỗi bên một chiếc. Các đèn hay dấu hiệu này biểu thị cho tàu thuyền khác biết sự nguy hiểm nếu gần tàu đang rà phá bom mìn ở khoảng cách dưới 1000 mét.
7. Tàu thuyền có chiều dài dưới 12 mét trừ các tàu thuyền đang tiến hành công tác ngầm dưới nước, không nhất thiết phải trưng các đèn và dấu hiệu quy định tại Điều này.
8. Những tín hiệu quy định ở Điều này không phải là những tín hiệu của tàu thuyền bị nạn và yêu cầu giúp đỡ. Những tín hiệu gặp nạn xin cấp cứu được quy định tại Phụ lục IV của Thông tư này.
Ban biên tập phản hồi thông tin đến bạn.