Có thể cầm sổ đỏ ở tiệm cầm đồ không?
Nội dung chính
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 Nghị định 96/2016/NĐ-CP thì kinh doanh dịch vụ cầm đồ, gồm: Kinh doanh dịch vụ cho vay tiền mà người vay tiền phải có tài sản hợp pháp mang đến cơ sở kinh doanh dịch vụ cầm đồ để cầm cố là ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự và phạm vi quản lý.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 309 Bộ luật dân sự 2015 thì:
Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Và bên nhận cầm cố có quyền "xử lý tài sản cầm cố theo phương thức đã thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật" nếu bên cầm cố không thực hiện nghĩa vụ.
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai 2013 thì người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất. Và Điểm d Khoản 1 Điều 10 Luật Nhà ở 2014 thì chủ sở hữu nhà ở và người sử dụng nhà ở có quyền bán, chuyển nhượng hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, để thừa kế, thế chấp, góp vốn, cho mượn, cho ở nhờ, ủy quyền quản lý nhà ở.
Căn cứ theo các quy định nêu trên thì việc nhận cầm cố là nhận cầm giữ tài sản, trong khi quyền sử dụng đất và nhà ở không phải là tài sản (không được xem là giấy tờ có giá mà chỉ là một chứng thư pháp lý), do đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là đối tượng để thực hiện việc cầm cố.
Như vậy, nhà nước không thừa nhận việc cầm cố quyền sử dụng đất và nhà ở. Tiệm cầm đồ không thể thực hiện việc cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng quy định. Nếu các bên thực hiện việc cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các giao dịch này không có giá trị pháp lý, sẽ bị tuyên vô hiệu theo Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015 do vi phạm điều cấm của pháp luật.