BỘ Y TẾ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 30-BYT/TT
|
Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 1978
|
THÔNG
TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN DƯỢC LIỆU TRONG NƯỚC
Hội
đồng Chính phủ vừa ra Nghị quyết số 200-CP ngày 21-8-1978 về việc phát triển
dược liệu trong nước, tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp dược phẩm và tăng
nguồn hàng xuất khẩu. Dựa vào mục tiêu, nhiệm vụ và biện pháp đã được ghi trong
nghị quyết, nay Bộ Y tế hướng dẫn những vấn đề cụ thể để các địa phương nghiên
cứu vận dụng thực hiện thống nhất trong toàn ngành.
I.
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU VÀ XÂY DỰNG CÁC CHỈ TIÊU KẾ HOẠCH
Nghị
quyết đề ra 3 mục tiêu:
1.
Bảo đảm đến mức cao nhất việc sản xuất thuốc phòng bệnh, chữa bệnh và thuốc bổ.
2.
Cung cấp ngày càng nhiều nguyên liệu cho công nghiệp dược phẩm, phấn đấu đến
năm 1985 trở đi:
2.1.
Đạt trên 80% tổng giá trị nguyên liệu của các xí nghiệp dược phẩm địa phương.
2.2.
Đạt trên 30% tổng giá trị nguyên liệu của các xí nghiệp dược phẩm trung ương.
3.
Tăng kim ngạch xuất khẩu để nhập dược liệu và thiết bị y tế cần thiết.
Trong
chỉ thị số 23-BYT/CT ngày 17-7-1976 Bộ Y tế đã quy định ở xã trồng từ 25 đến 35
cây thuốc nam để chữa 7 chứng bệnh thông thường dưới dạng dùng tươi, chè hay
thuốc thang là chủ yếu. Một số nơi có làm cao đơn hoàn tán. Thuốc nam ở xã nói
chung chưa được quy định thành chỉ tiêu và đặt trong kế hoạch dược liệu của
huyện, tỉnh. Để tạo điều kiện phát triển một cách vững chắc thuốc nam tại xã,
từ nay thuốc nam ở xã phải được đặt trong kế hoạch phát triển dược liệu của
huyện và tỉnh.
Cho
tới nay, một số huyện đã có kế hoạch sản xuất thuốc không những để dùng cho các
cơ sở y tế ở tuyến huyện mà còn để bán cho y tế các xã và bán lẻ cho nhân dân.
Dạng thuốc thường là chè, thuốc thang và cao đơn hoàn tán. Dược liệu dùng ở
đây cũng cần đưa vào chỉ tiêu kế hoạch chung của tỉnh.
Ở
tuyến tỉnh, từ nhiều năm nay, dược liệu đã được ghi vào kế hoạch Nhà nước, có
chỉ tiêu nuôi trồng, thu mua và sản xuất ra thành phẩm tại xí nghiệp dược phẩm
địa phương. Dạng thuốc phân phối ở tuyến tỉnh, ngoài các dạng ở xã, huyện, còn
có các thuốc sản xuất dưới dạng tân dược.
Từng
tỉnh vừa phải đảm bảo nhu cầu dược liệu của địa phương (từ xã đến huyện, tỉnh)
vừa làm nghĩa vụ bán cho các công ty cấp I của Bộ Y tế hoặc Bộ Ngoại thương để
xuất khẩu. Khuyết điểm lớn của kế hoạch phát triển dược liệu lâu nay là trên
nhiều mặt không được cân đối, nên rất bị động.
Để
có thể kế hoạch hoá được ở từng địa phương và cả nước, cần thống nhất cách tính
nhu cầu dược liệu của mỗi tỉnh, thành. Nhu cầu này bao gồm nhu cầu của xã,
huyện và của tỉnh, nhu cầu bảo đảm thuốc của địa phương và phần bán cho trung
ương (y tế và ngoại thương).
Phải
xuất phát từ tổng nhu cầu thuốc tiêu dùng hành năm của xã, huyện, tỉnh mà tính
ra nhu cầu dược liệu (tính bằng trị giá và tấn) lượng)
Thí
dụ: Tính N.T. với số dân 2.9 triệu (1979 và ước tiền thuốc bình quân cho mỗi
người là 8đ (không kể thuốc phòng và chữa các bệnh xã hội được Nhà nước cấp
không và thuốc tự túc ở xã), thì tổng giá trị tiền thuốc bán ra cả năm sẽ là:
8đ X
2.9 triệu = 23,2 triệu đồng.
Căn
cứ vào khả năng của địa phương, năm 1979 tỉnh N.T. dự kiến tự túc 30% bằng
nguồn thuốc sản xuất tại địa phương trị giá là:
= 7 triệu đồng.
Trung
ương sẽ cung cấp cho N.T. số thuốc thành phẩm trị giá (theo giá lẻ) là 23,200
triệu -7 triệu = 16,200 triệu đồng (chưa kể nguyên liệu trung ương cung cấp cho
các xí nghiệp địa phương).
Trong
giá trị dược phẩm được bào chế dưới dạng hàng hóa, nguyên liệu thường chiếm
40%. Như vậy trong 7 triệu đồng sản phẩm, trị giá nguyên liệu cần thiết là: = 2,800 triệu đồng. Trong số 2,800 triệu đồng nguyên
liệu này, đường, cồn chiếm 40% (tính là 1,120 triệu). Hoá chất và các nguyên
phụ liệu thường chiếm 20% (tức là 0,560 triệu), 40% còn lại phải là nguyên liệu
địa phương mà tỉnh N.T. phải tự túc, trị giá = 1,120 triệu đồng. Mặt khác trong số 7 triệu đồng mà
N.T tự lực, phân bổ như sau: sản xuất ở huyện 1,500 triệu đồng và sản xuất ở
tỉnh là 5,500 triệu đồng. Ngoài ra N.T. còn phải đảm bảo dược liệu cho nhu cầu
bốc thuốc thang thường vào khoảng 10% giá trị nguyên liệu sản xuất = = 280,000 đồng.
Phần
cung cấp cho trung ương là phần nghĩa vụ mà tỉnh phải thực hiện theo hợp đồng.
Thí dụ năm 1979 phải hợp đồng bán cho công ty cấp I là 1,500 triệu đồng. Như
vậy tổng giá dược liệu N.T. phải tự lực trong năm 1979 sẽ là: 1,120 triệu +
0,280 triệu + 1,500 triệu = 2,900 triệu.
Nếu
tính giá bình quân 2300đ/1 tấn dược liệu khô thì khối lượng dược liệu cần phải
có là:
= 1260 tấn
Trên
đây mới là cách tính khái quát khối lượng dược liệu bằng trị giá và tấn lượng.
Để có thể chỉ đạo việc nuôi trồng, thu mua và phân bổ chỉ tiêu kế hoạch cụ thể
cho từng huyện và công ty, còn phải tính ra nhu cầu cụ thể của từng cây, con.
Muốn tính được như vậy, từng tỉnh phải căn cứ vào yêu cầu phòng bệnh, chữa bệnh
của địa phương để định ra những loại thuốc cần sản xuất như an thần, thuốc về
đường tiêu hoá, thuốc đường hô hấp, thuốc bồi dưỡng cơ thể, …, rồi đối chiếu
với danh mục cây, con làm thuốc của địa phương (đã được xác định qua điều tra
dược liệu) xây dựng thành phương án sản phẩm (tức là mặt hàng cụ thể trên cơ sở
những công thức đã được duyệt). Từ công thức các mặt hàng và số lượng yêu cầu
đối với từng mặt hàng mà tính ra tấn lượng cho từng cây, con.
Tỷ
lệ tự lực 30% là tỷ lệ Bộ hướng dẫn chung cho các tỉnh, thành phố. Nhưng vì sự
phát triển của các tỉnh không đồng đều, nên tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi địa
phương mà có tỉnh phải đạt mức cao hơn để bù cho những tỉnh chưa có điều kiện
đạt được mức này. Đối với những cây thuốc cần cho sản xuất địa phương mà địa
phương không có khả năng tự lực cần xin sự hỗ trợ của địa phương khác, cũng cần
lên được kế hoạch nhu cầu. Từng năm ta sẽ nâng dần mức tự lực về dược liệu của
địa phương từ 30% lên dần đến mức tối đa phải đạt được là 80% như nghị quyết đã
quy định.
Để
tăng thêm khả năng thuốc cho nhân dân trong tỉnh (ngoài số 8đ) N.T. còn phải
giao chỉ tiêu tự túc thuốc nam cho từng huyện rồi huyện giao chỉ tiêu cho từng
xã theo chỉ thị số 23-BYT/CT của Bộ. Căn cứ khả năng thực tế của từng huyện,
xã, tỉnh và huyện sẽ định ra chỉ tiêu số xã tiên tiến, số xã khá và số xã đạt
yêu cầu. Mức phấn đấu chung cho toàn tỉnh trong năm 1979 cần đạt được bình quân
mỗi người dân có thêm 0,50đ bằng thuốc nam ở xã với tổng trị giá: 0,50đ X 2,900
triệu (dân) = 1,450 triệu đồng.
Đây
cũng là một chỉ tiêu mà Sở, Ty y tế phải đưa vào kế hoạch hàng năm để chỉ đạo
thực hiện một cách chặt chẽ.
Ngoài
số thuốc nam y tế các xã tự túc được, hiệu thuốc huyện vẫn bảo đảm cung cấp cho
các xã với mức bình quân 3đ/người/năm theo khả năng hiện nay. (Mặt hàng cụ thể
sẽ căn cứ vào danh mục thuốc Bộ đã quy định và nhu cầu cụ thể của từng xã, từng
vùng để phân phối cho hợp lý).
Về
động vật làm thuốc…([1])
một số nơi bắt đầu nuôi thử rắn lấy nọc, dùng sản xuất thuốc và xuất khẩu, song
ta còn ít kinh nghiệm. Các tỉnh, thành cần khai thác ưu thế của từng nơi như
tập quán nuôi hươu ở Nghệ Tỉnh, nuôi rắn ở Hà Nội, Hà Sơn Bình, tìm chọn những
đảo ven bờ biển Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hoá, Nghệ Tỉnh, Quảng Nam – Đà
Nẵng, Phú Khánh, Kiên Giang… tổ chức nuôi thử, tiến tới xác định chỉ tiêu kế
hoạch nuôi các con, khỉ, hươu, nai, tắc kè, rắn.
Đối
với những động vật làm thuốc, lâu nay, chủ yếu ta khai thác thiên nhiên. Những
nơi có hươu, nai, khỉ, tắc kè… Nhà nước đã ban hành những quy định về bảo vệ
thú rừng. Căn cứ vào kết quả điều tra động vật làm thuốc, từng tỉnh cần đề nghị
Ủy ban nhân dân tỉnh ra chỉ thị quy định nội dung cụ thể bảo vệ những con vật
dùng làm thuốc, bảo vệ những khu rừng có động vật làm thuốc, coi đó là một
trong những biện pháp để thực hiện pháp lệnh bảo vệ rừng, bảo vệ tài nguyên
trong rừng của địa phương.
Qua
kinh nghiệm thực tế ở địa phương và căn cứ vào quy trình kỹ thuật trồng cây
thuốc mà Bộ đã gửi cho các tỉnh phải xây dựng lịch thời vụ trồng trọt, thu hái
cho từng cây để hướng dẫn các cơ sở thực hiện một cách chủ động và có kế hoạch.
Từ chỉ tiêu kế hoạch đã phân bổ, ta mới có đủ yếu tố để cân đối cho mỗi cấp về
tiền vốn đầu tư, diện tích trồng và các vật tư khác cần đảm bảo. Và cũng phải
trên cơ sở cụ thể này mới có thể ký hợp đồng một cách nghiêm túc kể cả hợp đồng
hai chiều giữa huyện và xã (hợp tác xã) và giữa tỉnh và các công ty cấp I.
Các
Sở, Ty y tế ước tính đề ra con số kiểm tra đưa xuống huyện. Các huyện tính toán
và phân bổ cho các xã, rồi phải cùng với các xã cân nhắc, cân đối tỉ mỉ mọi
mặt. Sau đó tổng hợp lại ở huyện, ở tỉnh báo cáo với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước
tỉnh cân đối lần cuối cùng trước khi thành kế hoạch chính thức của tỉnh báo cáo
lên trung ương. Bộ Y tế sẽ làm việc cụ thể với một số tỉnh để rút kinh nghiệm
và phổ biến kinh nghiệm cách làm kế hoạch dược liệu cho các tỉnh khác.
Căn
cứ vào triển vọng đạt được trong năm 1979 và theo cách tính đã trình bày trên,
các tỉnh cần có dự kiến sớm kế hoạch dược liệu 1980 và 5 năm tới để:
-
Địa phương có kế hoạch đầu tư vốn, chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật và kế hoạch
phối hợp với các ngành có liên quan ở địa phương.
- Bộ
có cơ sở xây dựng kế hoạch về dược 5 năm lần thứ ba và xin Nhà nước cân đối về
các mặt.
II.
VỀ NHỮNG BIỆN PHÁP CHÍNH ĐỂ ĐẨY MẠNH VIỆC PHÁT TRIỂN CÂY VÀ CON LÀM THUỐC
1.
Đẩy mạnh công tác điều tra cây và con làm thuốc.
Để
có cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển dược liệu, các tỉnh cần phải
điều tra nắm được nguồn cây và con làm thuốc trong tỉnh.
Yêu
cầu chung về công tác điều tra là:
a)
Lập được bản đồ phân bổ dược liệu của tỉnh và từng huyện, có phân định rõ những
vùng dược liệu tự nhiên tập trung.
Khi
phát hiện những vùng có nhiều cây, con, cần tiến hành điều tra trữ lượng và
điều tra sinh thái để quản lý ngay việc khai thác và bảo vệ tái sinh.
b)
Xác định danh mục cây, con làm thuốc của tỉnh:
Từ
kết quả điều tra, nghiên cứu, chọn lọc, xác định danh mục cơ cấu cây, con cần
phát triển của tỉnh. Danh mục có thể ngoài một số cây, con trong danh mục
chung (96 cây, 5 con) bổ sung một số cây, con riêng của địa phương. Danh mục
này phải được Ủy ban nhân dân tỉnh chính thức xác nhận đưa vào kế hoạch phát
triển của tỉnh và được hưởng các chính sách khuyến khích trong sản xuất. Danh
mục không cố định, có thể thay đổi tuỳ theo tình hình phát triển của địa phương
trong những năm sau.
Các
tỉnh phía Nam căn cứ vào danh mục chung (96 cây, 5 con) quy định danh mục tạm
thời, sẽ được bổ sung chỉnh lý sau khi điều tra xong.
Các
tỉnh phía Nam, đến năm 1980 hoàn thành việc điều tra.
Các
tỉnh phía Bắc, điều tra tiếp những khu vực chưa làm, đi sâu vào điều tra trữ
lượng và sinh thái những cây, con cần thiết.
Viện
dược liệu có trách nhiệm chỉ đạo việc thực hiện. Trạm nghiên cứu dược liệu tỉnh
có nhiệm vụ giúp Ty y tế thực hiện công tác điều tra ở tỉnh.
Trong
quá trình làm, cần tranh thủ sự hướng dẫn của Viện dược liệu và sự giúp đỡ của
Ty lâm nghiệp địa phương.
2.
Quy hoạch phân vùng nuôi, trồng cây và con làm thuốc.
Muốn
nâng cao khả năng tự lực của địa phương trong việc sản xuất thuốc phòng bệnh và
chữa bệnh từ cây, con làm thuốc, mỗi địa phương cần phải có trên dưới 100 loại,
96 cây và 5 con ghi trong danh mục chung chỉ là những cây, con chủ yếu tương
đối phổ biến có thể hoặc nuôi trồng, hoặc thu hái tự nhiên.
Trong
những cây trồng, có cây có thể trồng luân canh với cây nông nghiệp, có cây có
thể trồng ở vùng núi cao, trên các loại đất rừng khác nhau thành các vùng cây
thuốc đặc sản.
Do
đó, khi nghiên cứu phân vùng, nên phân loại:
2.1
Đối với những cây thuốc ngắn ngày như bạc hà, địa hoàng, ích mẫu, bạch chỉ… có
thể luân canh với cây lương thực, cây thực phẩm hay cây công nghiệp, nên có thể
bố trí thành những tiểu vùng trong vùng cây lương thực, cây thực phẩm hay vùng
cây công nghiệp. Trong vùng này, tuỳ nhu cầu và vị trí của mỗi cây, cần phân
bố diện tích trồng cây thuốc tương đối tập trung tạo điều kiện thuận lợi cho
việc thâm canh, thu hái và chế biến.
Thí dụ:
Bạch chỉ, bạc hà được trồng ở vùng cây thực phẩm, cây lương thực Hà Nội, Hà Sơn
Bình.
Bạc
hà, địa hoàng trồng ở vùng cây công nghiệp Hải Hưng.
2.2.
Những cây thuốc yêu cầu có vùng chuyên canh
Đối
với những cây thuốc có nhu cầu trong nước và xuất khẩu lớn, những cây thuốc đặc
sản, những cây lâu năm, cần được quy thành vùng chuyên canh cây thuốc.
a)
Các cây thuốc trồng:
-
Trên đất rừng vùng thấp: ba kích, ba gạc, long não, canh ki na, chỉ xác, hoè,
táo các loại, hà thủ ô đỏ…
-
Trên đất rừng vùng cao: đỗ trọng, hoàng bá, đẳng sâm, tục đoạn, kim anh…
-
Trên đất nông nghiệp vùng thấp: solanum laciniatum ait, bạc hà…
-
Trên đất nông nghiệp vùng cao: anh túc, tam thất, bạch truật, vân mộc hương,
actixô, xuyên khung…
b)
Các cây thuốc tự nhiên:
Các
cây thuốc tự nhiên mọc tập trung thành vùng tương đối rộng, có trữ lượng lớn,
có khả năng trở thành vùng đặc sản để khai thác lâu dài, cần khoanh vùng để có
kế hoạch phát triển như:
Vùng
kim ngân của Hà Nam Ninh, Cao Lạng,
Vùng
kim anh của Cao Lạng,
Vùng
sơn tra của Hoàng Liên Sơn,
Vùng
mã tiền của Hà Tuyên, Đắk Lắk,
Vùng
vàng đắng của Đồng Nai, Tây Ninh,
Vùng
cây họ ngũ gia bì của Gia Lai – Kon Tum.
Sau
khi xác định được danh mục cây, con thuốc của tỉnh, quy được vùng theo hướng
phân loại trên, các Sở, Ty y tế cần làm việc ngay với Sở, Ty nông nghiệp và lâm
nghiệp, với ban phân vùng kinh tế của tỉnh để đề nghị đưa vùng cây thuốc vào
phương án phân vùng kinh tế nông – lâm nghiệp của địa phương.
Cần
chú trọng duy trì và sử dụng hợp lý những vùng cây, con thuốc đã được hình
thành từ lâu như vùng cúc hoa Hải Hưng.
2.3.
Đối với động vật làm thuốc
Ong
mật do ngành nông nghiệp phụ trách và giao sản phẩm cho ngành y tế theo chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nước. Các công ty dược tỉnh, thành phố liên hệ với các tổ
chức nuôi ong của nông nghiệp để ký hợp đồng thu mua sản phẩm.
Những
địa phương có những vùng thuận lợi cho việc chăn nuôi theo phương pháp nữa tự
nhiên như những khu rừng cấm, những đảo ven biển hoặc trong sông, hồ đều có thể
đẩy mạnh việc nuôi hươu, nai, khỉ, tắc kè… Ngoài ra, có thể nghiên cứu tổ chức
các trại nuôi tập trung hươu, nai, rắn.
Ty y
tế cần chủ động đề xuất với Ty lâm nghiệp và Ủy ban nhân dân tỉnh các chế độ,
quản lý săn bắt các thú rừng làm thuốc (hươu, nai, khỉ, hươu xạ…)
3.
Tạo và nhân giống tốt
Công
tác giồng cây, con làm thuốc thực hiện theo hướng phân công và phân cấp như
sau:
a)
Đối với 25-35 cây thuốc nam tự túc ở xã:
Trạm
y tế xã có trách nhiệm cung cấp giống cho các cơ sở và nhân dân trong xã. Kỹ
thuật để giống, chọn lọc giống tốt do trạm nghiên cứu dược liệu tỉnh hướng dẫn.
Trường hợp thiếu giống, trạm nghiên cứu dược liệu có trách nhiệm điều hoà, phân
phối.
b)
Đối với 96 cây và 5 con làm thuốc:
Trong
danh mục này, cần tập trung giải quyết giống cho các cây đã được trồng rộng
rãi, kỹ thuật ổn định (chủ yếu 20 cây trồng trên diện tích đất nông nghiệp và
10 cây trên đất rừng).
Các
cơ sở sản xuất cây thuốc theo kế hoạch Nhà nước thuộc hợp tác xã hay nông
trường đều có nhiệm vụ tự giải quyết giống để trồng cho vụ sau trừ trường hợp
do thiếu điều kiện khí hậu, cơ sở không tự để giống được như đối với các cây
thuốc ôn đới di thực của một số tỉnh vùng thấp nóng.
Công
ty dược tỉnh có trách nhiệm cung cấp giống cho các cơ sở khi thiếu. Trạm nghiên
cứu dược liệu hướng dẫn kỹ thuật nhân và chọn lọc giống. Để làm tốt công tác
này, mỗi tỉnh cần xây dựng một trại giống cây thuốc.
Công
ty dược liệu cấp I có trách nhiệm cung cấp hàng năm cho các tỉnh vùng thấp
những loại giống các cây thuốc ôn đới di thực sau: bạch chỉ, bạch truật, đương
quy …, điều hoà phân phối các loại giống thông thường khác khi địa phương yêu
cầu và có kế hoạch định kỳ cung cấp giống tốt thay dần các giống xấu đã thoái
hoá.
Các
công ty dược liệu cấp I cần có các trại nhân giống cấp I ở các vùng thích hợp
hoặc có thể kết hợp với địa phương tổ chức các cơ sở sản xuất giống để cung cấp
cho các tỉnh theo sự phân công trên.
Những
hợp tác xã chuyên sản xuất giống cây thuốc theo kế hoạch Nhà nước được hưởng
chính sách về giống theo quyết định số 209-CP ngày 07-9-1974 của Hội đồng Chính
phủ. Viện dược liệu có nhiệm vụ tạo giống tốt, cung cấp giống nguyên sản mới,
ban đầu chỉ đạo kỹ thuật và quản lý chất lượng giống cây, con thuốc của toàn
ngành. Viện dược liệu cần củng cố và mở rộng các trại giống của viện, tranh thủ
sự giúp đỡ của các viện nghiên cứu của nông nghiệp kỹ thuật tạo giống, của
ngành ngoại thương, Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước về nhập các giống thuốc
quý mới.
4.
Xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ việc phát triển cây và con làm thuốc
Những
cơ sở nuôi trồng cây, con làm thuốc thuộc nông trường, lâm trường quốc doanh
hay hợp tác xã đều được xây dựng những cơ sở chế biến ban đầu: sân phơi, lò
sấy, lò cất tinh dầu, lò nấu cao… với quy mô thích hợp theo yêu cầu của sản
xuất.
Những
cơ sở thu mua, phân phối cây, con làm thuốc của hệ thống quốc doanh (cửa hàng
thu mua, hiệu thuốc huyện, công ty dược tỉnh) nhất thiết phải có sân phơi, lò
sấy, kho tàng với các thiết bị bảo quản, phương tiện vận tải thích hợp và tương
xứng với khối lượng kinh doanh.
Mỗi
hiệu thuốc thuốc có một cơ sở chế biến các dạng thuốc thông thường (chè, thang,
hoàn…) từ dược liệu nuôi trồng trong huyện với trang thiết bị sản xuất trong
nước (máy xay, máy thái, tủ sấy, nồi bao viên…).
Các
cơ sở quốc doanh có thể hoặc xin Nhà nước đầu tư vốn để xây dựng, hoặc xin vay
vốn ngân hàng theo thông tư liên Bộ Ngân hàng Nhà nước – Tài chính số 14-TT/LB
ngày 24-02-1977.
Các
hợp tác xã được vay vốn ngân hàng để xây dựng cơ sở chế biến ban đầu theo chế
độ tín dụng hiện hành như đối với cây công nghiệp khác.
Việc
lập kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của tỉnh cần tiến hành theo
trình tự sau:
Xuất
phát từ kế hoạch cụ thể của các cơ sở nuôi trồng cây, con làm thuốc trong
huyện, để tính toán nhu cầu về vật liệu xây dựng, về trang thiết bị, phòng y tế
tổng hợp cân đối, báo cáo phòng kế hoạch, Ủy ban nhân dân huyện và Ty y tế; Ty
y tế tổng hợp nhu cầu toàn tỉnh, báo cáo với Ủy ban kế hoạch tỉnh và Bộ Y tế.
Bộ Y tế tổng hợp yêu cầu của toàn ngành để trình lên Nhà nước xét duyệt.
Trong
khi chưa làm đúng, được theo trình tự trên, Ty y tế cần chủ động đề xuất với Ủy
ban kế hoạch và Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết trước ở những nơi cần thiết tuỳ
theo khả năng của tỉnh.
Bộ Y
tế sẽ phổ biến những mẫu thiết kế, nồi cất tinh dầu và các dụng cụ máy móc chế
biến khác, để các địa phương có thể tự sản xuất lấy.
5.
Thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển cây, con làm thuốc.
Nghị
quyết đã nêu: “Cây và con làm thuốc là nguồn nguyên liệu chủ yếu cho công
nghiệp dược phẩm, được coi là cây công nghiệp quan trọng. Các chính sách khuyến
khích trồng cây công nghiệp đã ban hành đều được áp dụng đối với cây và con là
thuốc.
Nghị
quyết còn xác định danh mục những dược liệu chủ yếu cần phát triển.
Vì
vậy, căn cứ vào các chế độ, chính sách hiện hành, đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh
giải quyết cho các cây thuốc trong danh mục của tỉnh như đã giải quyết cho cây
công nghiệp trong tỉnh.
Về
giá dược liệu, Bộ y tế đang làm việc với Ủy ban Vật giá Nhà nước và Bộ Tài
chính để sửa đổi những giá chưa hợp lý, sau khi thống nhất giải quyết sẽ có
thông báo.
Bộ
Lương thực và thực phẩm đang chuẩn bị thông tư hướng dẫn nghị quyết số 55-CP
ngày 03-03-1978 của Hội đồng Chính phủ. Bộ Y tế đã đề nghị với Bộ Lương thực và
thực phẩm trong thông tư hướng dẫn sẽ nói rõ về lương thực đối với cây thuốc.
Về
thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế hai chiều trong việc thu mua dược liệu, Sở,
Ty y tế cần chỉ đạo một huyện làm thí điểm, từ đó đề xuất những yêu cầu cụ thể
để Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố giải quyết.
Chỉ
tiêu kế hoạch nuôi trồng cây, con làm thuốc đều được cân đối vật tư nông nghiệp
(phân bón, thuốc trừ sâu…), vật tư chế biến (xăng dầu, than, kim loại…), Bộ Y
tế đã đề nghị với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Nông nghiệp khi giao kế hoạch
cho tỉnh sẽ đồng thời thông báo cho Sở, Ty y tế biết số lượng các vật tư trên
dành cho kế hoạch dược liệu của tỉnh, thành phố.
Sở,
Ty y tế cần quan hệ chặt chẽ với Ủy ban kế hoạch tỉnh, Ty nông nghiệp và các
ngành hữu quan trong tỉnh để đề nghị giải quyết vật tư cho cây thuốc.
III.
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC NGÀNH, CÁC CẤP
Hội
đồng Chính phủ giao trách nhiệm cho ngành y tế thống nhất chỉ đạo và quản lý
toàn bộ công tác nuôi trồng cây và con làm thuốc, từ việc sản xuất đến thu mua,
chế biến và phân phối.
Đây
là một trách nhiệm rất lớn đối với ngành y tế, đồng thời là nhiệm vụ rất thiết
thân của ngành để có thuốc phục vụ sức khoẻ nhân dân, do đó bản thân ngành y tế
phải nỗ lực chủ động, vừa làm vừa học, vừa rút kinh nghiệm để không ngừng cải
tiến công tác, đồng thời phải tranh thủ tích cực sự phối hợp giúp đỡ của các
ngành, các cấp trung ương và địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện các chính sách để phát triển cây, con làm thuốc, đặc biệt là đối với các
ngành có quan hệ mật thiết như nông nghiệp, lâm nghiệp.
Các
Sở, Ty y tế cần tổ chức nghiên cứu kỹ nghị quyết số 200-CP và thông tư hướng
dẫn này và có kế hoạch triển khai ngay những công việc cần phải làm.
|
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
THỨ TRƯỞNG
Dược sĩ Nguyễn Duy Cương
|