Quyết định 5066/QĐ-UBND năm 2007 điều chỉnh Quyết định 6178/QĐ-UB về giải quyết khiếu nại do Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành
Số hiệu | 5066/QĐ-UBND |
Ngày ban hành | 09/11/2007 |
Ngày có hiệu lực | 09/11/2007 |
Loại văn bản | Quyết định |
Cơ quan ban hành | Thành phố Hồ Chí Minh |
Người ký | Nguyễn Hữu Tín |
Lĩnh vực | Thủ tục Tố tụng |
ỦY
BAN NHÂN DÂN |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 5066/QĐ-UBND |
TP. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 11 năm 2007 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI SỐ 6178/QĐ-UB NGÀY 26 THÁNG 9 NĂM 2001 CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ.
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15 tháng 0 năm 2004 và điều 3 Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005 có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 06 năm 2006;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2003;
Xét phần đất đang có tranh chấp, khiếu nại có diện tích 320m2 (8m x 40m) thuộc một phần thửa 293, tờ 1, ấp 2, xã Tân Quy Đông, huyện Nhà Bè (tài liệu đăng ký 299/TTg). Thửa 293 có diện tích chung là 7.745m2, loại thổ tập trung, có nhiều cá nhân đăng ký, trong đó có ông Nguyễn Thanh Vân đăng ký sử dụng 160m2.
Ngày 10 tháng 12 năm 1991, vợ chồng ông Nguyễn Thanh Vân và bà Nguyễn Thị Tốt lập giấy sang nhượng 119m2 (7m x 17m) nằm trong diện tích đăng ký cho vợ chồng ông Nguyễn Minh Hùng và bà Tạ Thị Kim Lan (thường trú tại số 88/11/2/4 Nguyễn Khoái, phường 2, quận 4), có xác nhận việc chuyển nhượng của Ủy ban nhân dân xã Tân Quy Đông. Sau đó, bà Lan lập thủ tục xin sử dụng đất để xây dựng nhà ở và được Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè cấp Quyết định giao đất số 86/QĐGĐ ngày 12 tháng 5 năm 1993 với diện tích 119m2. Bà Lan đã thực hiện nghĩa vụ tài chính vào năm 1994. Ngoài ra, vợ chồng bà Tốt còn làm giấy tay ngày 18 tháng 11 năm 1991 sang nhượng một phần đất khác diện tích 160m2 (8m x 20m) (phía sau lô đất 119m2) cho bà Trần Muối (ngụ tại 109/34B/11 Bến Vân Đồn, phường 9, quận 4); đến ngày 25 tháng 11 năm 1991, bà Trần Muối làm giấy tay bán lại cho bà Lan. Bà Lan đứng tên đăng ký Chỉ thị 02/CT với tổng diện tích 349m2 (189m2 + 160m2).
Năm 1993, vợ chồng bà Lan làm giấy tay bán toàn bộ đất có diện tích 320m2 cho ông Nguyễn Văn Bảnh (thường trú tại số 60/3 Trần Xuân Soạn, huyện Nhà Bè) với giá 30 lượng vàng. Việc mua bán có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã vào ngày 10 tháng 6 năm 1993 về nguồn gốc đất là của bà Lan, có nhượng lại cho ông Bảnh và hồ sơ đang chờ huyện có Quyết định sử dụng chính thức. Trên thực tế, việc mua bán đã hoàn thành, ông Bảnh đã giao đủ 30 lượng vàng cho bà Lan.
Như vậy, bà Tạ Thị Kim Lan đứng tên đăng ký Chỉ thị 02/CT (349m2), trong đó có 119m2/349m2 có Quyết định giao đất của Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè. Căn cứ Điều 4 Nghị định số 03/HĐBT ngày 23 tháng 3 năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: “Người đang sử dụng đất hợp pháp là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người có tên trong sổ địa chính”. Do đó, bà Lan là người sử dụng đất hợp pháp. Bà Lan chuyển nhượng đất cho ông Bảnh có thông qua Ủy ban nhân dân xã, việc chuyển nhượng đã hoàn thành, không có tranh chấp nên được xem là hợp lệ.
- Do ông Nguyễn Văn Bảnh có nợ của ông Phạm Văn Sinh (ngụ tại số 650B lô V, Đoàn Văn Bơ, phường 10, quận 4) và bà Trương Thị Hiền (ngụ tại số 226/7 ấp 4, xã Tân Quy Tây, huyện Nhà Bè) một số vàng là 14 lượng, không có khả năng chi trả, nên ngày 06 tháng 3 năm 1994 ông Nguyễn Văn Bảnh làm “Giấy thế chấp đất” để thế chấp phần đất 320m2 cho ông Sinh với thời hạn 5 tháng kể từ tháng 3 năm 1994; trong thời hạn này ông Bảnh được quyền bán đất để trả nợ cho ông Sinh và bà Hiền, nếu quá thời hạn trên mà không bán được đất để trả nợ thì phần đất 320m2 thuộc quyền sử dụng của ông Sinh, bà Hiền. Giấy thế chấp có xác nhận ngày 03 tháng 8 năm 1994 của Ủy ban nhân dân xã Tân Qui Đông về vị trí đất có tọa lạc tại xã.
Ngoài việc nợ ông Sinh, ông Bảnh còn nợ tiền của ông Đỗ Minh Hải (ngụ tại 60D cư xá Cửu Long, phường 22, quận Bình Thạnh) và ông Lê Phi Long (ngụ tại 117/4 ấp 4, xã Tân Quy Tây, huyện Nhà Bè); 2 khoản nợ này ông Bảnh cũng không có khả năng thanh toán. Do đó, ngày 09 tháng 4 năm 1994, ông Bảnh làm “Giấy cam kết sang nhượng” chuyển nhượng và phân chia phần đất 320m2 cho ba người để trừ nợ, gồm :
+ Ông Đỗ Minh Hải: 80m2/320m2 (4m x 20m), mặt tiền đường 79.
+ Ông Phạm Văn Sinh: 80m2/320m2 (4m x 20m), mặt tiền đường 79.
+ Ông Lê Phi Long: 160m2/320m2 (8m x 20m), nằm phía sau hai lô đất của ông Hải và ông Sinh, mặt tiền đường 77.
Ông Đỗ Minh Hải và ông Lê Phi Long có kiện ông Bảnh ra Tòa án nhân dân quận 7. Tòa án nhân dân quận 7 có Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 54 ngày 05 tháng 8 năm 2000 và số 53 ngày 09 tháng 8 năm 2000. Theo đó, ông Bảnh đồng ý trả số nợ 10 lượng vàng 24K cho ông Hải và trả số nợ 29 lượng vàng 24K cho ông Long. Tuy nhiên, cho đến nay ông Bảnh chưa trả được. Sau đó, ngày 22 tháng 12 năm 2003, ông Bảnh lập hợp đồng hứa chuyển nhượng đất (160m2) cho ông Long để cấn trừ nợ. Ông Long lập thủ tục xin sử dụng đất, Ủy ban nhân dân quận 7 đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sau đó ra Quyết định số 351/QĐ-UBND ngày 16 tháng 11 năm 2006 thu hồi hủy bỏ giấy chủ quyền với lý do: Kê khai việc mua đất không đúng đối tượng.
Ngoài việc thế chấp, chuyển nhượng đất cho 03 người nêu trên, ông Bảnh còn lập hợp đồng chuyển nhượng phần đất này (ngày 23 tháng 6 năm 2004) cho ông Hồ Văn Kiên (sau khi Ủy ban nhân dân thành phố có Quyết định giải quyết khiếu nại công nhận 320m2 đất cho ông Bảnh). Do phần đất này còn đang tranh chấp, chưa xử lý dứt điểm nên ông Kiên đã kiện ông Bảnh ra Tòa án nhân dân quận 7. Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận (số 03/2006/QĐ-CNTT ngày 23 tháng 02 năm 2006), ông Bảnh đồng ý trả lại tiền đặt cọc 200.000.000 đồng và bồi thường tiền cọc 325.000.000 đồng cho ông Kiên. Đến nay, ông Bảnh chưa trả được.
Như vậy, việc thế chấp đất có qua Ủy ban nhân dân xã, nhưng Ủy ban nhân dân xã không xác nhận nội dung thế chấp. Ông Bảnh chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên việc thế chấp đất không đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai ngày 14 tháng 07 năm 1993: “Không được chuyển quyền sử dụng đất: - Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp”.
Việc ông Bảnh làm “cam kết sang nhượng” cho 03 Ông nêu trên có thông qua Ủy ban nhân dân xã, nhưng Ủy ban nhân dân xã chỉ xác nhận chữ ký của ông Bảnh, không xác nhận việc khác. Trường hợp này cũng không đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai năm 1993 đã nêu ở trên.
- Ngày 24 tháng 9 năm 1994, ông Phạm Văn Sinh căn cứ vào “Giấy thế chấp đất” để lập “Giấy thỏa thuận chuyển quyền sử dụng đất” bán phần đất diện tích 320m2 cho bà Huỳnh Thị Trí Nghĩa (ngụ tại H24 cư xá Vĩnh Hội, phường 6, quận 4) và bà Hà Thị Mai Trâm (ngụ tại 272 Bà Hạt, phường 9, quận 10) với giá 22 lượng vàng, có xác nhận chữ ký của Ủy ban nhân dân xã Tân Qui Đông ngày 08 tháng 11 năm 1994. Qua làm việc với ông Trần Quốc Phương (ngụ tại 36 Đồng Khởi, phường Bến Nghé, quận 1) và tường trình của ông Huỳnh Hữu Tâm, được biết: Trên thực tế phần đất diện tích 320m2 là do ông Trần Quốc Phương và ông Huỳnh Hữu Tâm mua của ông Sinh với giá 22 lượng vàng, nhưng nhờ bà Nghĩa và bà Trâm đứng tên giùm (quan hệ bà con). Đến năm 1998, thì ông Tâm bán lại phần đất 160m2/320m2 cho ông Phương (giấy tay bị thất lạc).
Như vậy, việc chuyển nhượng có thông qua Ủy ban nhân dân xã xác nhận chữ ký, nhưng việc chuyển nhượng này là bất hợp pháp thể hiện ở chỗ:Thực chất ông Sinh chuyển nhượng đất cho ông Trần Quốc Phương và ông Huỳnh Hữu Tâm, nhưng để bà Nghĩa, bà Trâm đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau đó, ông Phương mua lại ½ diện tích 320m2 của ông Tâm. Mặt khác ông Sinh căn cứ vào giấy thế chấp đất của ông Bảnh để chuyển nhượng là không đủ yếu tố pháp lý và việc chuyển nhượng này đã phát sinh tranh chấp từ phiá ông Bảnh và ông Long, ông Hải.
Hành vi chuyển nhượng đất của ông Sinh, ông Phương và các cá nhân nêu trên là vi phạm khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai ngày 14 tháng 7 năm 1993 đã nêu ở trên.
- Đầu năm 1999, ông Trần Quốc Phương (cán bộ Phòng Quản lý đô thị quận 7) lập hồ sơ hợp thức hóa căn nhà không số (vách cót tre, mái lá), diện tích 24m2 do ông Phương xây dựng trên phần đất diện tích 187m2/320m2 (ông Sinh có làm giấy tái xác nhận chỉ mua bán diện tích 160m2/320m2). Theo ông Phương trình bày, ông không xin hợp thức hóa toàn bộ diện tích 320m2 là vì không đủ tiền để đóng tiền sử dụng đất. Hồ sơ xin hợp thức hóa của ông Phương đã được Ủy ban nhân dân phường Tân Quy, Phòng Quản lý đô thị quận 7, Ủy ban nhân dân quận 7 xác nhận không có tranh chấp, khiếu nại; Kiến trúc sư trưởng thành phố xác nhận nhà ở phù hợp quy hoạch; Sở Địa chính-Nhà đất thành phố xác nhận nhà ở, đất ở đủ điều kiện để hợp thức hóa. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân thành phố đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 11844/99 ngày 11 thámg 10 năm 1999 công nhận chủ quyền căn nhà mang số 347A/8 khu phố 1, đường 79, phường Tân Qui, quận 7 cho ông Phương với diện tích 24m2, diện tích đất 166m2, ông Phương đã nộp tiền sử dụng đất là 33.200.000 đồng.
Như vậy, việc ông Phương lập thủ tục hợp thức hóa và được Ủy ban nhân dân thành phố cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (số 11844 ngày 11 tháng 10 năm 1999) là không đúng Quyết định số 6280/QĐ-UB-QLĐT ngày 26 tháng 8 năm 1995 của Ủy ban nhân dân thành phố quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở vì đất đang có tranh chấp, khiếu nại và đang được Ủy ban nhân dân quận 7 xem xét giải quyết, chưa dứt điểm. Thể hiện qua các tài liệu sau:
+ Ngày 18 tháng 5 năm 1995, ông Lê Phi Long và ông Đỗ Minh Hải cùng đứng đơn khiếu nại ông Phạm Văn Sinh tự ý bán phần đất 320m2 mà không thông qua hai ông. Sự việc đã được Ủy ban nhân dân xã tiếp nhận, lập biên bản tiếp xúc các bên ngày 06 tháng 12 năm 1996 và chuyển hồ sơ lên cấp trên giải quyết.
+ Ngày 20 tháng 07 năm 1998, ông Nguyễn Văn Bảnh làm đơn khiếu nại việc ông Sinh tự ý bán đất và yêu cầu Ủy ban nhân dân quận 7 buộc ông Sinh trả lại đất cho Ông. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1999, Ủy ban nhân dân quận 7 ban hành Quyết định giải quyết tranh chấp đất số 126/QĐ-UB không công nhận việc thế chấp đất, mua bán đất giữa các cá nhân có liên quan.
Trách nhiệm chính trong việc xác nhận sai hồ sơ không có tranh chấp thuộc Ủy ban nhân dân phường Tân Quy, Phòng Quản lý đô thị quận 7 và Ủy ban nhân dân quận 7. Qua phát hiện nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố đã có Quyết định số 78/QĐ-UB ngày 08 tháng 01 năm 2004 thu hồi và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho ông Trần Quốc Phương là đúng pháp luật.
- Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (diện tích 166m2/320m2), ông Trần Quốc Phương đã bán cho 02 người. Cụ thể như sau:
+ Ngày 07 tháng 6 năm 2000, ông Phương lập hợp đồng bán một phần căn nhà 347A/8 khu phố 1, đường 79, phường Tân Quy có diện tích nhà 12m2/24m2, diện tích đất 79m2/166m2, cho bà Nguyễn Thị Hoa Sen với giá 120.000.000đ, hợp đồng có chứng nhận của Phòng Công chứng Nhà nước số 1. Sau đó, bà Sen lập thủ tục xin cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở và được Ủy ban nhân dân thành phố cấp Giấy chủ quyền số 1438/2001 ngày 05 tháng 02 năm 2001 mang số nhà mới là 138A khu phố 1, đường số 79, phường Tân Quy, quận 7.
+ Ngày 20 tháng 6 năm 2001, ông Phương lập hợp đồng bán tiếp phần căn nhà còn lại có diện tích nhà 12m2/24m2, diện tích đất 87m2/166m2, cho bà Phạm Thị Bình với giá 120.000.000 đồng, hợp đồng có chứng nhận của Phòng Công chứng Nhà nước số 1. Ngày 09 tháng 7 năm 2001, bà Bình đã hoàn tất thủ tục đăng bộ tại Sở Địa chính-Nhà đất. Ngày 08 tháng 8 năm 2001, Ủy ban nhân dân quận 7 cấp giấy phép xây dựng số 208/GPXD cho bà Bình được xây dựng căn nhà 4 tầng, nhưng thực tế đến nay bà chưa xây dựng (giấy phép xây dựng có hiệu lực 01 năm). Hiện trạng là đất trống, cỏ dại, người mua chưa xây dựng nhà ở.