Quyết định 39-CT năm 1983 về việc xét duyệt kết quả thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1982 do Hội Đồng Bộ trưởng ban hành
Số hiệu | 39-CT |
Ngày ban hành | 31/01/1983 |
Ngày có hiệu lực | 15/02/1983 |
Loại văn bản | Quyết định |
Cơ quan ban hành | Hội đồng Bộ trưởng |
Người ký | Đỗ Mười |
Lĩnh vực | Bộ máy hành chính |
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT |
Số: 39-CT |
Hà Nội, ngày 31 tháng 01 năm 1983 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC XÉT DUYỆT KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC NĂM 1982
Để làm cơ sở thống nhất cho việc xét thưởng hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1982, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy định một số điểm như sau:
Đối tượng xét duyệt là các đơn vị và cơ sở sản xuất, kinh doanh hạch toán kế toán các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp quốc doanh và công tư hợp danh ( dưới đây gọi tắt là các đơn vị cơ sở); các liên hiệp xí nghiệp quốc doanh thuộc tất cả các ngành kinh tế.
II. TIÊU CHUẨN VÀ CĂN CỨ ĐỂ XÉT DUYỆT VÀ CÔNG NHẬN HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC.
1. Các đơn vị cơ sở và liên hiệp các xí nghiệp được công nhận và công bố là hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước phải bảo đảm thực hiện đầy đủ cả hai tiêu chuẩn sau đây:
a) Hoàn thành hoặc hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.
b) Chấp hành đúng 4 quy định dưới đây:
- Phải hoàn thành kế hoạch giao nộp sản phẩm cho Nhà nước.
- Phải chấp hành chế độ quyết toán vật tư, kết quả sản xuất và kinh doanh phải tương ứng với vật tư và điều kiện sản xuất; có nhiều cố gắng và tiến bộ trong việc chấp hành các định mức kinh tế- kỹ thuật.
- Nộp lợi nhuận phần kế hoạch, kế hoạch bổ sung và kế hoạch sản xuất phụ (nếu có) theo đúng tỷ lệ quy định trong quyết định số 146- HBĐT ngày 25-3-1982; có nhiều cố gắng và tiến bộ về tăng năng suất lao động, giảm giá thành, giảm phí lưu thông, giảm lỗ tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước.
- Chấp hành các chính sách, chế độ của Nhà nước về quản lý quỹ lương, tiền thưởng, giá cả, tiền mặt, ngoại tệ; về hợp đồng kinh tế và chế độ báo cáo thống kê kế toán v.v...
Trong tiêu chuẩn a, nếu hoàn thành tất cả các chỉ tiêu kế hoạch theo Nghị định số 143-CP ngày 13-5-1980 của Hội đồng Chính phủ, và thực hiện 4 điểm quy định trong tiêu chuẩn b thì được công nhận là hoàn thành toàn diện và xuất sắc các kế hoạch Nhà nước.
Nếu đã thực hiện đúng tiêu chuẩn và đầy đủ tiêu chuẩn b nói trên và trong tiêu chuẩn a hoàn thành được 3 chỉ tiêu chủ yếu sau đây thì cũng được công nhận là hoàn thành kế hoạch Nhà nước :
- Giá trị sản lượng hàng hóa thực hiện trong đó sản lượng hàng hóa giao nộp cho Nhà nước, sản lượng hàng hóa xuất khẩu ( hoặc các chỉ tiêu tương ứng trong các ngành như khối lượng xây lắp các công trình hoặc hạng mục công trình bàn giao ; khối lượng hàng hóa, hành khách vận chuyển ; khối lượng vật tư hàng hóa mua vào, bán ra...) Trong tình hình giá cả có biến động, phải đặc biệt coi trọng nghĩa vụ giao nộp sản phẩm hàng hóa cho Nhà nước.
- Sản lượng sản phẩm chủ yếu theo chỉ tiêu chất lượng quy định, trong đó sản lượng sản phẩm chủ yếu xuất khẩu (hoặc danh mục các công trình hạng mục công trình chủ yếu hoàn thành bàn giao ; khối lượng vận tải một số mặt hàng chủ yếu đến địa điểm giao nhận theo hợp đồng cho các chủ hàng; khối lượng hành khách vận chuyển theo các luồng đường chủ yếu; số lượng hàng hóa chủ yếu bán buôn, bán lẻ, thu mua,; số lượng vật tu, thiết bị chủ yếu phải cung ứng ...).
- Lôi nhuận và các khoản phải thu nộp ngân sách Nhà nước (trên cơ sở lợi nhuận thực hiện)
Những đơn vị nào không thực hiện đúng một trong hai tiêu chuẩn quy định ở trên thì không được công nhận là đơn vị hoàn thành kế hoạch Nhà nước.
2. Mức chỉ tiêu để xét duyệt và công nhận hoàn thành kế hoạch Nhà nước của các đơn vị cơ sở là liên hiệp các xí nghiệp , là mức giao đầu năm hoặc điều chỉnh trước ngày 30 tháng 9 năm 1982 do bộ trưởng, tổng cục trưởng giao nếu là các đơn vị của trung ương ; hoặc do chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố đặc khu giao nếu là các đơn vị của địa phương.
Các mức chỉ tiêu kế hoạch của Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố giao cho các cơ sở là liên hiệp các xí nghiệp không được thấp hơn mức tổng số do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giao cho Bộ, tỉnh và thành phố.
Nếu tổng hợp các mức chỉ tiêu kế hoạch của các cơ sở và liên hiệp các xí nghiệp thấp hơn mức tổng số do Hội đồng bộ trưởng giao cho Bộ và tỉnh, thành phố thì các cơ quan có thẩm quyền trong công tác xét duyệt hoàn thành kế hoạch cần xem xét cụ thể các điều kiện khách quan và chủ quan, hợp lý và không hợp lý, có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận để có kết luận đúng đắn, có tình, có lý.
3. Số liệu làm căn cứ để xét duyệt kết quả thực hiện kế hoạch (kể cả kế hoạch bổ sung và kế hoạch sản xuất phụ) nhất thiết phải là số liệu thống kê, kế toán chính thức được tính theo đúng phương pháp quy định trong các chế độ báo cáo thống kê và kế toán của Nhà nước. Đối với liên hiệp các xí nghiệp thì số liệu của các chỉ tiêu phải là số liệu của toàn liên hiệp sau khi đã làm xong việc kiểm tra, xét duyệt kết quả thực hiện kế hoạch tất cả các xí nghiệp trực thuộc.
III. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỤ THỂ VỀ NGUYÊN TẮC XÉT DUYỆT VÀ CÔNG NHẬN, CÔNG BỐ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC
1. Để xác định đúng đắn mức độ thực hiện kế hoạch của các chỉ tiêu, thì về nội dung và phương pháp tính phải bảo đảm thống nhất giữa thực hiện với kế hoạch. Giá cả dùng để tính giá trị kết quả thực hiện đồng nhất với giá cả lúc lập kế hoạch. Kết quả chênh lệch giá không do cố gắng của đơn vị cần phải được loại trừ ra khỏi phần lợi nhuận thực hiện và phải nộp vào ngân sách Nhà nước theo số thực tế phát minh trong năm.
2. Khi xét duyệt kết quả thực hiện kế hoạch Nhà nước phải kiểm tra xem xét đầy đủ các chỉ tiêu thuộc các phần kế hoạch Nhà nước giao được cung ứng vật tư chủ yếu; kế hoạch bổ sung do xí nghiệp tự tìm kiếm vật tư và kế hoạch sản xuất phụ, bảo đảm kết hợp hài hoà cả ba lợi ích , lợi ích của người lao động; lợi ích của trung ương; địa phương; và cơ sở.
3. Việc kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phải được kiểm tra kỹ các chứng từ ghi chép ban đầu, các sổ sách tổng hợp trung gian và các báo biểu thống kê, kế toán có liên quan.
4.Về quỹ lương dùng để tính quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, lấy quỹ lương thực hiện cả năm để tính quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi; không được tính những khoản ngoài các quy định về quỹ lương của Nhà nước, thí dụ phần lương khoán vượt định mức của Nhà nước cho phép; lương sản phẩm hỏng vượt định mức cho phép; các khoản chi từ quỹ bảo hiểm xã hội trả thay lương; bồi dưỡng ca ba bằng hiện vật ; các khoản chi phí ăn trưa; các khoản chi sai chế độ, chính sách tiền lương hiện hành v.v....
IV. QUY ĐỊNH PHẠM VI ÁP DUNG.
Quyết định này được áp dụng để xét duyệt hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1982 cho các đơn vị cơ sở và liên hiệp các xí nghiệp thuộc tất cả các ngành kinh tế.
Việc trích lập quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi được áp dụng theo các quy định hiện hành của Nhà nước.
Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính, Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước chịu trách nhiệm hướng dẫn cụ thể thi hành và giúp Hội đồng bộ trưởng kiểm tra việc thực hiện ở các Bộ, các địa phương và các cơ sở. Hội đồng bộ trưởng sẽ xem xét hoàn chỉnh chế độ xét duyệt kết quả thực hiện kế hoạch Nhà nước và xét khen thưởng áp dụng từ năm 1983 trở đi.
Khi tiến hành kiểm tra xét duyệt kết quả thực hiện kế hoạch cho các cơ sở và liên hiệp các xí nghiệp, các Bộ, Tổng cục các Sở cần thông báo cho cơ quan thống kê, kế hoạch, tài chính và ngân hàng để cùng phối hợp; việc ra quyết định công nhận hoàn thành kế hoạch Nhà nước cho các đơn vị phải được sự thõa thuận của các cơ quan nói trên.
|
K.T. CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG |