BỘ
CHÍNH TRỊ
-------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------
|
Số:
23-NQ/TW
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 6 năm 2008
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT TRONG THỜI KỲ MỚI
Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) của Đảng ta đã nêu
lên mục tiêu và những nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, trong đó, văn học, nghệ thuật là một bộ phận rất quan trọng.
Trong
thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế, phấn đấu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, văn học, nghệ thuật
nước nhà đứng trước những thời cơ, vận hội lớn, đồng thời cũng đứng trước những
thách thức mới gay gắt.
Nhằm
phát huy vai trò, sứ mệnh cao quý của văn học, nghệ thuật và của đội ngũ văn
nghệ sĩ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và phát triển
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
I- Tình hình văn học, nghệ
thuật thời gian qua
Thời
gian qua (1998 - 2008), trong bối cảnh tiếp tục đổi mới toàn diện đất nước,
trình độ dân trí của nhân dân ta từng bước được nâng cao, nhu cầu văn hoá ngày
càng phong phú, đa dạng, các phương tiện truyền bá ngày càng hiện đại, văn học,
nghệ thuật Việt Nam có bước phát triển mới, có những biến đổi sâu sắc, những đặc
điểm mới, đạt được nhiều thành tựu, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém đan
xen nhau.
1. Thành tựu
- Nhìn
tổng thể, văn học, nghệ thuật đã nắm bắt được dòng mạch chính là chủ nghĩa yêu
nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, nỗ lực phản ánh chân thật cuộc sống đấu
tranh cách mạng và lao động sáng tạo của nhân dân, có nhiều tác phẩm tốt trong
tất cả các loại hình nghệ thuật từ văn học, sân khấu, điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật
đến nhiếp ảnh, múa, kiến trúc... thể hiện qua những đề tài lịch sử, chiến tranh
cách mạng và những vấn đề thời sự của đất nước. Chủ nghĩa nhân văn, phẩm chất
nhân đạo được phát huy và đề cao. Văn học, nghệ thuật đã cố gắng phát hiện, khẳng
định các nhân tố mới, tham gia cuộc đấu tranh lên án cái xấu, cái ác, sự biến
chất, thoái hoá về nhân cách, đời sống và đạo đức trong một bộ phận xã hội. Tự
do trong sáng tạo nghệ thuật và sự đa dạng về nội dung, phong cách sáng tác,
phương thức biểu hiện được tôn trọng; dấu ấn cá nhân, cá tính sáng tạo được khẳng
định. Lực lượng văn nghệ sĩ và văn nghệ các dân tộc thiểu số có bước phát triển.
Công tác sưu tầm, bảo tồn, phát huy di sản văn học, nghệ thuật của các dân tộc
đạt được những kết quả thiết thực. Sự xuất hiện lực lượng sáng tác trẻ với những
khả năng sáng tạo và sự đa dạng về phong cách là dấu hiệu mới đáng trân trọng.
Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển; nhiều câu lạc bộ văn học, nghệ thuật
ra đời, góp phần cổ vũ, động viên quần chúng sáng tạo, khai thác, truyền bá các
giá trị nghệ thuật cổ truyền và thưởng thức văn học, nghệ thuật, nâng cao đời sống
tinh thần của nhân dân ở cơ sở.
- Công
tác lý luấn văn học, nghệ thuật có bước đổi mới, lý giải khoa học hơn quan hệ
giữa văn học, nghệ thuật với chính trị, giữa hiện thực và nghệ thuật. Tư tưởng
văn học, nghệ thuật truyền thống của cha ông được quan tâm nghiên cứu. Các
thành tựu văn học, nghệ thuật thế kỷ XX được đánh giá lại thoả đáng. Một số
phương pháp nghiên cứu văn học, nghệ thuật phi truyền thống được vận dụng, bước
đầu đem lại kết quả tốt. Phê bình văn học, nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới có
tác dụng tích cực đối với sáng tác, phát hiện cái tốt, ủng hộ cái mới, tiến bộ
trong hoạt động sáng tạo.
- Các
phương tiện, phương thức sản xuất, trình diễn, sử dụng, truyền bá sản phẩm văn
học, nghệ thuật phát triển khá mạnh đã đưa được nhiều tác phẩm đến với công
chúng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân. Đã hình thành một
thị trường hàng hoá và dịch vụ các sản phẩm văn học, nghệ thuật ở trong nước;
đưa các sản phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng ra nước ngoài, góp phần khẳng
định nước ta là địa chỉ giao lưu văn hoá quốc tế trong thời kỳ mới.
- Đội
ngũ văn nghệ sĩ được hình thành, phát triển và rèn luyện trong sự nghiệp cách mạng
của dân tộc, là lực lượng tin cậy, trung thành của đất nước, của Đảng và nhân
dân, có lòng yêu nước nồng nàn, tự hào dân tộc, tâm huyết với nghề nghiệp, xứng
đáng với danh hiệu cao quý nghệ sĩ - chiến sĩ, là lực lượng nòng cốt trực tiếp
tạo nên nền văn học, nghệ thuật cách mạng của dân tộc trong thời kỳ mới. Hiện
nay, đội ngũ này gồm nhiều thế hệ nối tiếp và gắn bó với nhau. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ kế cận có bước phát triển về quy mô, loại hình, mạng lưới. Đội
ngũ giảng viên về văn học, nghệ thuật được bổ sung, trình độ được nâng cao, có
khả năng đào tạo hầu hết các ngành, nghề trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Cơ
sở vật chất, kỹ thuật, một số điều kiện đặc thù cho dạy và học từng bước được đầu
tư, nâng cấp.
- Tư
duy lý luận và quan điểm của Đảng về văn học, nghệ thuật tiếp tục đổi mới, bổ
sung, phát triển, góp phần cổ vũ, khích lệ, tạo niềm tin cho văn nghệ sĩ. Các cấp
uỷ đảng có nhiều cố gắng theo sát thực tiễn văn nghệ, nâng cao năng lực lãnh đạo
và tìm tòi các phương thức chỉ đạo phù hợp, thiết thực.
Các cơ
quan quản lý nhà nước đã cố găng nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý, chú trọng
thể chế hoá, tạo hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động văn học, nghệ thuật;
bước đầu xã hội hoá có kết quả một số hoạt động trong nhiều lĩnh vực.
Các hội
văn học, nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương tiếp tục giữ vững định hướng
chính trị, cố gắng tập hợp, đoàn kết đội ngũ, đẩy mạnh hoạt động sáng tạo.
2-Yếu kém, khuyết điểm
So với
yêu cầu phát triển đất nước và những định hướng được xác định trong Nghị quyết
Trung ương 5 (khoá VIII), hoạt động văn học, nghệ thuật thời gian qua còn bộc lộ
một số yếu kem, khuyết điểm:
-
Trong sáng tác, biểu diễn, truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật còn không
ít tác phẩm và hoạt động chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc dân
tộc. Số lượng tác phẩm ngày càng nhiều song còn ít tấc phẩm có giá trị cao về
tư tưởng và nghệ thuật. Trong một số tác phẩm, lý tưởng xã hội – thẩm mỹ không
rõ nét, ý nghĩa xã hội còn hạn hẹp. Một số văn nghệ sĩ còn hạn chế trong tiếp cận
và nhận thức những vấn đề mới của cuộc sống, chưa cảm nhận đầy đủ ý nghĩa, chiều
sâu và tính phức tạp của quá trình chuyển biến mang tính lịch sử trong thời kỳ
mới của đất nước. Có biểu hiện xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, chạy
theo các đề tài nhỏ nhặt, tầm thường, chiều theo thị hiếu thấp kém của một bộ
phận công chúng, hạ thấp chức năng giáo dục, nhấn mạnh một chiều chức năng giải
trí. Trong một số trường hợp, có biểu hiện cực đoan, chỉ tập trung tô đậm mặt
đen tối, tiêu cực của cuộc sống hiện tại, thậm chí xuyên tạc, bóp méo lịch sử
hoặc bị các thế lực thù địch lôi kéo, đã sáng tác và truyền bá các tác phẩm độc
hại, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân và đất nước... Tình trạng nghiệp dư
hoá các hoạt động văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp có chiều hướng tăng lên.
- Hoạt
động lý luận văn học, nghệ thuật còn lạc hậu về nhiều mặt, chưa giải đáp được
nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác, có biểu hiện xơ cứng,
kém năng động, giảm sút tác dụng tích cực đối với sáng tác. Lý luận văn nghệ và
mỹ học mác-xít chưa được nghiên cứu và phát huy tương xứng với vai trò và giá
trị của nó.
Hoạt động
phê bình văn học, nghệ thuật có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu, thực hiện
chưa tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác. Chất lượng
khoa học và tính chuyên nghiệp của phê bình bị xem nhẹ; xuất hiện lối phê bình
cảm tính, thiếu một hệ thống tiêu chí tin cậy để đánh giá tác giả và tác phẩm,
văn hóa phê bình bị hạ thấp...
- Một
số sản phẩm văn học, nghệ thuật tầm thường, chất lượng kém được phát hành, truyền
bá gây tác hại, ảnh hưởng xấu tới công chúng, nhất là thế hệ trẻ. Một số đài
truyền hình đã phát những chương trình ca nhạc, phim... không lành mạnh, gây
tác động tiêu cực đến tư tưởng, thẩm mỹ của công chúng. Nhìn chung, còn ít sản
phẩm văn hoá đến được các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo và vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Số tác phẩm có giá trị của ta được giới thiệu ra nước ngoài
còn hạn chế; trong khi đó, một số sản phẩm không phù hợp với truyền thống đạo đức,
văn hoá của dân tộc, thậm chí độc hại, phản động của nước ngoài lại xâm nhập
vào nước ta, gây nên nhiều tác động tiêu cực.
- Công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sĩ còn nhiều bất cập, yếu kém: chương
trình, nội dung lạc hậu; chất lượng đào tạo toàn diện về chính trị, tư tưởng,
chuyên môn, đạo đức, thể chất không bảo đảm; chưa chú trọng đúng mức tính đặc
thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng; không quan tâm gửi giảng viên và
sinh viên các ngành nghệ thuật đào tạo ở nước ngoài; đội ngũ giáo viên đầu đàn,
có trình độ chuyên môn cao bị thiểu hụt ngày càng nhiều; điều kiện và phương tiện
phục vụ dạy và học vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu. Đội ngũ lý luận, phê bình vừa
thiếu, vừa bị hụt hẫng thế hệ kế cận, phân bổ không đều ở các ngành nghệ thuật.
Năng lực
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của các cấp uỷ đảng, cơ quan nhà nước bộc lộ nhiều bất
cập, hạn chế; nội dung và phương thức lãnh đạo chậm đổi mới; chưa lường hết được
tác động phức tạp, tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, dẫn tới sự lúng
túng, thụ động khi định hướng và xử lý những vấn đề mới phát sinh. Việc thể chế
hoá các nghị quyết, quan điểm của Đảng còn chậm; một số cơ chế, chính sách rất
quan trọng được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) đến nay vẫn chưa
được cụ thể hoá để thực hiện. Nhiều chính sách đối với văn nghệ và văn nghệ sĩ
đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi. Thiếu định hướng và tiêu chí cụ thể cho việc
chọn lọc, kế thừa và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống cũng như chọn lọc,
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại trong thời gian qua còn nhiều bất cập, có
lúc không rõ tiêu chí, thiếu định hướng. Chưa xây dựng được những công trình
trung tâm lớn cho hoạt động văn hoá, nghệ thuật, tương xứng với vị thế của đất
nước thời kỳ mới.
Một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, tham mưu, quản lý văn nghệ thiếu hiểu biết về văn học,
nghệ thuật, ít học tập, ngại tiếp xúc nên hiệu quả lãnh đạo, quản lý còn thấp,
có sự hẫng hụt đội ngũ này ở cả tầm vĩ mô và ở các đơn vị cơ sở.
Một số
hội văn học, nghệ thuật chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, lúng
túng trong việc tập hợp và phát huy tiềm năng của đội ngũ, xác lập các chuẩn mực
đánh giá, thẩm định tác phẩm. Đáng chú ý là thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan chỉ đạo, quản lý văn học, nghệ thuật của Đảng, Nhà nước với các hội văn
học, nghệ thuật trong việc thực hiện đường lối, chính sách phát triển văn học,
nghệ thuật của Đảng và Nhà nước.
Nguyên
nhân của những bất cập, yếu kém nêu trên có nhiều, chủ yếu là những nguyên nhân
chủ quan.
Sự
quan tâm lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước về quan điểm, chủ trương,
chính sách, về đầu tư kinh phí, ngân sách cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật chưa
đúng tầm và đúng mức. Một số vấn đề cốt lõi và mới đặt ra trong lĩnh vực này
chưa được lý giải thấu đáo, thiếu thống nhất. Công tác tổng kết thực tiễn chưa
theo kịp sự phát triển, vì thế có lúc lúng túng, thiếu những quyết sách cơ bản,
chủ động; có biểu hiện vừa buông lỏng, hữu khuynh, vừa áp đặt, chủ quan, thiếu
tầm nhìn xa. Chủ trương tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá,
văn nghệ - nền tảng tinh thần của xã hội - chưa được quán triệt và thực hiện
nghiêm túc. Một số cấp uỷ, chính quyền chưa coi trọng và thiếu hiểu biết đầy đủ
về vai trò, tính đặc thù của văn học, nghệ thuật, chậm thể chế hoá quan điểm,
đường lối của Đảng. Đầu tư cho văn hoá, văn nghệ chưa tương xứng với yêu cầu mới,
chưa hợp lý và kém hiệu quả.
II- Mục tiêu, quan điểm chỉ
đạo, chủ trương và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật
trong thòi kỳ mới
Trong
những năm tới, văn học, nghệ thuật Việt Namđứng trước thời cơ lớn và những
thách thức mới.
Để thực
hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải tiến hành một cuộc đấu tranh
gian khổ và phức tạp giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa tốt
và xấu, cao thượng và thấp hèn... Hiện thực đó là mảnh đất giàu tiềm năng cho
những tìm tòi, sáng tạo của văn nghệ sĩ để tiếp tục xây đắp một nền văn học,
nghệ thuật ngày càng lớn mạnh với những tác giả, tác phẩm có tầm vóc xứng đáng
với dân tộc.
Quá
trình hội nhập quốc tế, giao lưu văn hoá có khả năng tạo ra những biến đổi lớn
về diện mạo, đặc điểm, loại hình văn nghệ nước nhà, đồng thời, sự bùng nổ của các
phương tiện truyền bá sản phẩm văn nghệ, của công nghệ giải trí cũng có thể tác
động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống và công chúng văn nghệ. Mặt khác, các
thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu và thủ đoạn ''diễn biến hoà bình'',
nhằm tạo ra sự tự diễn biến trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, đạo đức trong nội
bộ ta.
1- Mục tiêu
- Tập trung mọi nguồn lực
xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng
về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân; phục vụ có hiệu quả sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
- Xây
dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng,
chất lượng và cơ cấu loại hình, có các thế hệ nối tiếp nhau vững chắc, có tình
yêu Tổ quốc nồng nàn, gắn bó sâu sắc với nhân dân, với sự nghiệp đổi mới do Đảng
lãnh đạo, có năng lực sáng tạo phong phú, đa dạng, đoàn kết, gắn bó cùng phát
triển trong cộng đồng các dân tộc anh em trên đất nước ta.
- Nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, bảo đảm yêu cầu phát triển
của lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
2- Quan điểm chỉ đạo
Trên
cơ sở tiếp tục quán triệt và thực hiện 5 quan điểm chỉ đạo chung đối với nhiệm
vụ xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được xác định
trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), riêng đối với lĩnh vực văn học, nghệ
thuật, cần nhấn mạnh và bổ sung các quan điểm chỉ đạo sau đây:
- Văn
học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là
nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một
trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của
xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.
- Văn
học, nghệ thuật Việt Nang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc
tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tác nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật
có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người; vừa
có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá - tinh thần ngày càng cao của
nhân dân. Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời với tập trung xây
dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp. Trên cơ sở giữ gìn, phát
triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng
hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của
nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt,
xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch.
- Tài
năng văn học, nghệ thuật và vốn quý của dân tộc. Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng,
quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là trách nhiệm của toàn
xã hội, trước hết là của Đảng, Nhà nước và của các tổ chức trong hệ thống chính
trị các cấp. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do sáng tạo, tạo điều kiện thuận lợi
phát huy tính độc lập, khơi dậy mọi nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ. Văn nghệ
sĩ, người chiến sĩ xây dựng và phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, cần phát huy lòng yêu nước nồng nàn, gắn bó máu thịt với nhân dân, nêu
cao trách nhiệm công dân, sáng tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị phụng sự đất
nước và dân tộc.
3- Chủ trương và các giải
pháp
Trên
cơ sở tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp phát triển văn học, nghệ thuật
đã được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương (khoá VIII), Bộ Chính trị xác
định các chủ trương, giải pháp lớn phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ
mới:
- Tiếp
tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn
học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm
tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước
nhà. Trên nền tảng mỹ học mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh, khuyến khích văn nghệ
sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân, bảo vệ,
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa
văn hoá của nhân loại; lên án, phê phán không khoan nhượng những tiêu cực, xấu
xa đang cản trở sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
- Tiếp
tục đổi mới và nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo của Đảng đối với văn
học, nghệ thuật; bồi dưỡng nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, đặc trưng của
văn học, nghệ thuật cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quan lý
trong hệ thống chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực này; xây dựng
và đưa vào chương trình đào tạo cán bộ thuộc các trường đảng nội dung về văn học,
nghệ thuật. Cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ xây dựng và
phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển, của
từng địa phương, từng ngành. Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý khoa học, bảo đảm
được định hướng chính trị; khắc phục những hiện tượng mất dân chủ hoặc can thiệp
thô bạo đối với hoạt động văn học nghệ thuật, cũng như xu hướng thả nổi, không
phê phán những tác giả, tác phẩm đi ngược lại các giá trị chân, thiện, mỹ, những
giá trị tốt đẹp của dân tộc và cách mạng. Cấp uỷ đảng các cấp có kế hoạch định
kỳ làm việc với lực lượng sáng tạo và hoạt động văn học, nghệ thuật.
- Nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn học, nghệ thuật. Hoàn thành cơ bản
việc thể chế hoá các quan điểm, đường lối, định hướng của Đảng về văn học, nghệ
thuật. Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn học,
nghệ thuật; rà soát, bổ sung và xây dựng mới các chế độ, chính sách đối với hoạt
động văn học, nghệ thuật, như chế độ lương, nhuận bút, đãi ngộ tài năng, bồi dưỡng
lao động nghề nghiệp, chế độ hưu. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch xã
hội hoá các hoạt động văn học, nghệ thuật, làm rõ các lĩnh vực cần xã hội hoá,
lĩnh vực Nhà nước và nhân dân cùng làm, lĩnh vực Nhà nước phải đầu tư bảo tồn,
xây dựng và phát triển. Tăng mức đầu tư cho văn học, nghệ thuật; bảo đảm kinh
phí cho các chương trình mục tiêu lớn, cho hoạt động sáng tạo của các hội văn học,
nghệ thuật, xác định việc đầu tư này là đầu tư cho phát triển. Xây dựng đề án
và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật cổ truyền; có
chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn học, nghệ
thuật các dân tộc thiểu số. Có kế hoạch đầu tư xây dựng các công trình văn hoá,
nghệ thuật; nâng cấp, cải tạo và xây mới một số nhà hát, rạp chiếu phim, trung
tâm triển lãm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao, tầm cỡ lớn, tính chất hiện
đại ở các thành phố, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước. Các cơ
quan quản lý nhà nước về xuất bản, báo chí, phát thanh, truyền hình phối hợp chặt
chẽ với các hội văn học, nghệ thuật nhằm công bố, giới thiệu, quảng bá các tác
phẩm văn học, nghệ thuật có chất lương tốt, định hướng thẩm mỹ cho công chúng.
Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, phát triển lý luận văn học, nghệ thuật. Kiên quyết
khắc phục những yếu kém kéo dài của hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật,
nâng cao tính khoa học, tính thuyết phục, góp phần hướng dẫn, điều chỉnh sáng
tác, phê bình văn nghệ. Đổi mới và nâng cao hiệu quả các hoạt động công bố, giới
thiệu, truyền bá các sản phẩm tốt phục vụ đông đảo nhân dân ở mọi miền đất nước.
Tổ chức nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc thành quả lý luận văn học, nghệ thuật
của ông cha ta và của thế giới, vận dụng sáng tạo, làm phong phú lý luận văn học,
nghệ thuật Việt Nam hiện đại; tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho mọi năng
lực sáng tạo có cơ hội phát huy phát triển, khích lệ những tìm tòi, tôn trọng
những ý kiến khác nhau về lý luận và phê bình văn nghệ vì lợi ích chung và sự
phát triển lành mạnh của văn nghệ. Xây dựng cơ chế quản lý và chế tài ngăn chặn,
xử lý các hoạt động sáng tác, truyền bá những sản phẩm văn học, nghệ thuật có nội
dung, tư tưởng nghệ thuật thấp, ảnh hưởng xấu tới xã hội; xây dựng các đạo luật
điều chỉnh lĩnh vực văn học, nghệ thuật, trước mắt sửa đổi, bổ sung Luật Báo
chí, Luật Xuất bản..., có những chế tài nâng cao trách nhiệm trong việc thẩm định,
đánh giá, quyết định công bố, trình diễn, truyền bá các tác phẩm, đặc biệt trên
hệ thống thông tin đại chúng, phát thanh, truyền hình, dịch vụ biểu diễn nghệ
thuật. Phối hợp tốt các lực lượng làm công tác văn hoá đối ngoại, coi trọng xây
dựng, phát triển lực lượng dịch giả văn học, nghệ thuật để nâng cao chất lượng,
hiệu quả của việc đưa các tác phẩm văn nghệ Việt Nam ra nước ngoài phục vụ đồng
bào ta và bạn bè quốc tế. Xây dựng cơ chế thẩm định, lựa chọn tác phẩm (cả sáng
tác, lý luận, nghiên cứu, phê bình) của nước ngoài đưa vào nước ta.
- Xây
dựng và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ đáp ứng yêu cầu tiếp tục phát triển mạnh
mẽ nền văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời kỳ mới.
Nâng
cao chất lượng các trường đào tạo văn học, nghệ thuật; hoàn thiện chương trình,
nội dung, giáo trình trong các trường cao đẳng, đại học, giảng dạy các ngành
đào tạo văn học, nghệ thuật (sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình, biểu diễn,
chỉ huy, đạo diễn...); rà soát, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng văn nghệ sĩ, đáp ứng yêu cầu đào tạo đặc thù trong
lĩnh vực này. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài các năng khiếu, tài
năng văn học, nghệ thuật. Xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ
lãnh đạo, quản lỷ, tham mưu lĩnh vực văn học, nghệ thuật có đủ năng lực, trình
độ và phẩm chất đảm đương công việc. Xây dựng và thực hiện chính sách trọng dụng
nhân tài, ưu đãi văn nghệ sĩ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh
hưởng tích cực trong xã hội.
- Củng
cố, đổi mới hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và các địa
phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, động viên phát huy tiềm lăng sáng tạo và
phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ của hội. Các hội văn học, nghệ thuật phải làm tốt
vai trò tập hợp, đoàn kết, phát huy tính chủ động, tích cực xã hội và tài năng
sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt
động của các hội phù hợp với thời kỳ mới, khuyến khích tìm tỏi các phương thức
hoạt động gắn chặt với thực tiễn cuộc sống. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý
nhà nước trong việc thực hiện Luật Sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền tác giả văn
học, nghệ thuật.
Chính
phủ xây dựng nghị định về các hội văn học, nghệ thuật, khẳng định các hội là tổ
chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc,
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, được đầu tư, chăm lo
cho sự phát triển. Nghiên cứu phương thức huy động các nguồn lực cho hoạt động
của các hội theo hướng đa dạng hóa và việc sử dụng nguồn lực các hội một cách hợp
lý, tạo cơ hội cho ra đời các tác phẩm tốt. Xây dựng và đổi mới cơ chế, chính
sách, chế tài điều chỉnh việc Nhà nước đặt hàng mua tác phẩm, tổ chức sản xuất,
xuất bản, công diễn, trình chiếu, triển lãm, tặng giải thưởng các tác phẩm văn
học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Nâng
cao hiệu quả lãnh đạo của đảng đoàn các hội, hiệu quả hoạt động của các tổ chức
đảng trong các đơn vị hoạt động văn nghệ, quan tâm bồi dưỡng, kết nạp vào Đoàn,
vào Đảng những văn nghệ sĩ trẻ tuổi.
Tăng
cường các biện pháp xây dựng, phát triển văn nghệ quần chúng, hướng dẫn,
khuyến khích quần chúng tham gia sáng tạo, bảo tồn, truyền dạy và phát huy các
giá trị văn hoá, văn nghệ truyền thống của dân tộc.
III- Tổ chức thực hiện
1. Các
tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc
Trung ương tổ chức nghiên cứu, học tập Nghị quyết, xây dựng chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết một cách thiết thực, có hiệu quả.
2- Ban Tuyên giao Trung ương chủ trì:
- Phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng văn bản hướng
dẫn, biên soạn tài liệu phục vụ triển khai Nghị quyết, chỉ đạo công tác tuyên
truyền sâu rộng các nội dung cơ bản của Nghị quyết, phối hợp với các hội văn học,
nghệ thuật và Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức nghiên cứu, quán triệt
cho đội ngũ văn nghệ sĩ.
- Cùng Ban cán sự đảng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ
Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Đảng đoàn Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp
các Hội văn học, nghệ thuật Việt Nam và các cơ quan hữu quan theo chức năng, khẩn
trương triển khai các nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết.
- Phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban
cán sự đảng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xây dựng đề án đổi mới và nâng cao
chất lượng đào tạo của các trường văn hoá, nghệ thuật trong cả nước theo các chủ
trương, giải pháp đã xác định trong nghị quyết.
- Phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương xây dựng tiêu chuẩn,
cơ chế, lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn học, nghệ thuật;
phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh trong việc
xây dựng chương trình, nội dung đào tạo về văn học, nghệ thuật cho học viên
trong hệ thống các trường chính trị.
3- Ban cán sự đảng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì,
phối hợp với Đảng đoàn Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật
Việt Nam, các cơ quan hữu quan xây dựng các cơ chế, chính sách, các quy định và
thực hiện các nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết về quản lý nhà nước đối với
văn học, nghệ thuật.
4- Ban cán sự đảng Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Văn
phòng Trung ương Đảng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội
văn học, nghệ thuật Việt Nam và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, xây dựng và
hoàn thiện các chế độ, chính sách đối với lực lượng hoạt động và sáng tạo văn học,
nghệ thuật, kế hoạch xây dựng các công trình, trung tâm hoạt động văn học, nghệ
thuật.
5- Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung
ương, theo chức năng, nhiệm vụ được giao, tham gia thực hiện các chủ trương,
nhiệm vụ của lĩnh vực lý luận, phê bình.
6- Ban Tuyên
giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với các ngành, các cấp định kỳ kiểm tra thực
hiện Nghị quyết và báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.
|
T/M BỘ CHÍNH
TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Nông Đức Mạnh
|