Công văn số 3216 TCT/NV5 ngày 05/09/2003 của Tổng cục thuế về việc chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu

Số hiệu 3216TCT/NV5
Ngày ban hành 05/09/2003
Ngày có hiệu lực 05/09/2003
Loại văn bản Công văn
Cơ quan ban hành Tổng cục Thuế
Người ký Phạm Văn Huyến
Lĩnh vực Thuế - Phí - Lệ Phí

BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc

Số 3216 TCT/NV5
V/v chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu

Hà Nội, ngày 05 tháng 9 năm 2003

 

 

Kính gửi: Cục thuế tỉnh Đồng Nai

Tổng cục Thuế nhận được công văn số 990/CT-ĐTNN để ngày 26 tháng 6 năm 003 của Cục thuế tỉnh Đồng Nai hỏi về chứng từ thanh toán đối với hàng xuất khẩu. Về vấn đề này, Tổng cục thuế có ý kiến như sau:

1. Trường hợp người nhập khẩu chỉ định bên thứ ba (ở nước ngoài) thanh toán và/hoặc nhận hàng.

Theo hướng dẫn tại Điểu 7 công văn số 8282 TC/TCT ngày 12 tháng 8 năm 2003 của Bộ Tài chính (bản photcopy kèm theo), trường hợp bên mua hoặc bên bán uỷ quyền cho bên thứ ba là tổ chức, cá nhân ở nước ngoài thực hiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ cho cơ sở kinh doanh ở Việt Nam (cơ sở xuất khẩu) thì việc thanh toán theo uỷ quyền phải được quy định trong hợp đồng xuất khẩu (hoặc phụ lục hợp đồng nếu có); chứng từ thanh toán cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu trong trường hợp này là Giấy báo có của ngân hàng bên xuất khẩu.

2. Trường hợp hàng hoá gia công xuất khẩu thông qua cơ sở trực tiếp ký hợp đồng gia công với nước ngoài:

- Căn cứ hướng dẫn tại Điểm 1b, Mục I, Phần D Thông tư số 122/2000/TT-BTC ngày 29 tháng 12 năm 2000 của Bộ Tài chính đối với hàng hoá gia công xuất khẩu qua một cơ sở khác ký hợp đồng gia công xuất khẩu thì cơ sở trực tiếp gia công hàng hoá xuất khẩu được xét hoàn thuế GTGT.

- Hàng hoá gia công xuất khẩu trong trường hợp này được áp dụng thuế suất 0% nếu đáp ứng đầy đủ các kinh doanh và hồ sơ quy định tại Điểu 1.3.b. Mục II. Phần B Thông tư số 122/2000/TT-BTC nói trên: Điểm 1.1, Mục III Thông tư số 82/2002/TT-BTC ngày 18 tháng 9 năm 2002 của Bộ Tài chính.

3. Tính hợp lệ của các Giấy báo nợ/báo có của Ngân hàng:

Theo thông lệ, các giấy báo nợ, báo có của Ngân hàng không phải chứng từ gốc mà chỉ là chứng từ đối soát, do đó thường không có dấu xác nhận của Ngân hàng. Vì vậy, cơ quan thuế chỉ dùng các chứng từ này đối chiếu để biết số tiền nhập vào hoặc rút ra từ tài khoản của doanh nghiệp mở tại Ngân hàng. Các giấy báo nợ, báo có này được coi là chứng từ hợp lệ.

Tổng cục Thuế thông báo để Cục thuế tỉnh Đồng Nai biết và hướng dẫn đơn vị thực hiện.

 

 

KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC THUẾ

PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG




Phạm Văn Huyến