Công văn 1613a/BTC-CĐKT năm 2018 về chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán do Bộ Tài chính ban hành
Số hiệu | 1613a/BTC-CĐKT |
Ngày ban hành | 08/02/2018 |
Ngày có hiệu lực | 08/02/2018 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Bộ Tài chính |
Người ký | Lê Thị Tuyết Nhung |
Lĩnh vực | Kế toán - Kiểm toán |
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1613a/BTC-CĐKT |
Hà Nội, ngày 08 tháng 02 năm 2018 |
Kính gửi: |
Công ty kiểm toán Xây dựng |
Bộ Tài chính nhận được công văn số 645/VPCP-ĐMDN của Văn phòng Chính phủ chuyển phiếu hỏi của Công ty Kiểm toán xây dựng hỏi về hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán, sau khi nghiên cứu, Bộ Tài chính có ý kiến trả lời như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014: “Chi nhánh, là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Ngành, nghề kinh doanh của chi nhánh phải đúng với ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp.”
Theo quy định tại Điều 31 Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 ngày 29/03/2011:
“1. Điều kiện để chi nhánh của doanh nghiệp kiểm toán được kinh doanh dịch vụ kiểm toán:
a) Doanh nghiệp kiểm toán có đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định tại Điều 21 của Luật này;
b) Chi nhánh có ít nhất hai kiểm toán viên hành nghề, trong đó có Giám đốc chi nhánh. Hai kiểm toán viên hành nghề không được đồng thời là kiểm toán viên đăng ký hành nghề tại trụ sở chính hoặc chi nhánh khác của doanh nghiệp kiểm toán.
c) Được sự chấp thuận bằng văn bản của Bộ Tài chính.
2. Chi nhánh của doanh nghiệp kiểm toán không bảo đảm điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này sau ba tháng liên tục thì bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ kiểm toán.
3. Trường hợp doanh nghiệp kiểm toán bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ kiểm toán thì các chi nhánh của doanh nghiệp kiểm toán đó cũng bị đình chỉ kinh doanh dịch vụ kiểm toán.”
Như vậy, căn cứ các quy định trên:
1. Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán bảo đảm đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán theo quy định tại Điều 31 Luật Kiểm toán độc lập thì được phép kinh doanh dịch vụ kiểm toán dưới sự ủy quyền của doanh nghiệp kiểm toán.
2. Chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán được ký hợp đồng trực tiếp với chủ đầu tư, được tham gia các gói thầu nếu được sự ủy quyền của doanh nghiệp kiểm toán.
3. Về ký báo cáo kiểm toán: Theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 ngày 29/03/2011: “Báo cáo kiểm toán phải có chữ ký của kiểm toán viên hành nghề do doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh, doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam giao phụ trách cuộc kiểm toán và người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp kiểm toán hoặc người được ủy quyền bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật. Người được ủy quyền bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật phải là kiểm toán viên hành nghề”.
Theo đó các kiểm toán viên hành nghề tại chi nhánh nếu đảm bảo các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 46 Luật Kiểm toán độc lập nêu trên đây được ký báo cáo kiểm toán.
Trên đây là ý kiến trả lời của Bộ Tài chính, trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc đề nghị phản ánh về Bộ Tài chính để nghiên cứu, giải quyết./.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG |