Công văn 1110/TCT-CS năm 2015 về khấu trừ thuế giá trị gia tăng do Tổng cục Thuế ban hành
Số hiệu | 1110/TCT-CS |
Ngày ban hành | 31/03/2015 |
Ngày có hiệu lực | 31/03/2015 |
Loại văn bản | Công văn |
Cơ quan ban hành | Tổng cục Thuế |
Người ký | Nguyễn Hữu Tân |
Lĩnh vực | Thuế - Phí - Lệ Phí |
BỘ TÀI CHÍNH |
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1110/TCT-CS |
Hà Nội, ngày 31 tháng 03 năm 2015 |
Kính gửi: Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh
Tổng cục Thuế nhận được công văn số 135/CT-TTr ngày 08/01/2015 của Cục Thuế tỉnh Quảng Ninh nêu vướng mắc về khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Về vấn đề này Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại tiết a khoản 2.4 Phụ lục số 04 Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn về lập hoá đơn quy định:
"a) Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ (sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu theo quy định của pháp luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại) thì phải lập hoá đơn, trên hoá đơn ghi tên và số lượng hàng hoá, ghi rõ là hàng khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu không thu tiền; dòng thuế suất, thuế GTGT không ghi, gạch chéo".
Tại khoản 22 điều 7 Thông tư số 06/2012/TT-BTC ngày 11/1/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế GTGT:
"22. Giá tính thuế đối với các loại hàng hóa, dịch vụ quy định từ khoản 1 đến khoản 21 Điều này bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
Trường hợp cơ sở kinh doanh áp dụng hình thức giảm giá bán, chiết khấu thương mại dành cho khách hàng (nếu có) thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã giảm, đã chiết khấu thương mại dành cho khách hàng. Trường hợp việc giảm giá bán, chiết khấu thương mại căn cứ vào số lượng, doanh số hàng hoá, dịch vụ thì số tiền giảm giá, chiết khấu của hàng hoá đã bán được tính điều chỉnh trên hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ của lần mua cuối cùng hoặc kỳ tiếp sau. Trường hợp số tiền giảm giá, chiết khấu được lập khi kết thúc chương trình (kỳ) giảm giá, chiết khấu hàng bán thì được lập hoá đơn điều chỉnh kèm bảng kê các số hoá đơn cần điều chỉnh, số tiền, tiền thuế điều chỉnh. Căn cứ vào hoá đơn điều chỉnh, bên bán và bên mua kê khai điều chỉnh doanh số mua, bán, thuế đầu ra, đầu vào".
Tại điều 8, điều 9 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP ngày 4/4/2006 của Chính phủ quy định chi tiết các hình thức khuyến mại theo Luật thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại như sau:
"Điều 8. Tặng hàng hóa cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền; không kèm theo việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ:
Thương nhân thực hiện chương trình khuyến mại bằng hình thức tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền, không kèm theo việc mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ. Phải chịu trách nhiệm về chất lượng của hàng hoá, tặng cho khách hàng, dịch vụ không thu tiền và phải thông báo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó.
Điều 9. Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng dịch vụ trước đó:
1. Trong trường hợp thực hiện khuyến mại bằng hình thức giảm giá thì mức giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại trong thời gian khuyến mại tại bất kỳ thời điểm nào phải tuân thủ quy định tại Điều 6 Nghị định này.
2. Không được giảm giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ trong trường hợp giá bán hàng hoá, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quy định giá cụ thể.
3. Không được giảm giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ xuống thấp hơn mức giá tối thiểu trong trường hợp giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ thuộc diện Nhà nước quy định khung giá hoặc quy định giá tối thiểu.
4. Tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại bằng cách giảm giá đối với một loại nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ không được vượt quá 90 (chín mươi) ngày trong một năm; một chương trình khuyến mại không được vượt quá 45 (bốn mươi lăm) ngày.
5 . Nghiêm cấm việc lợi dụng hình thức khuyến mại này để bán phá giá hàng hóa, dịch vụ".
Tại điều 15 Nghị định số 37/2006/NĐ-CP nêu trên quy định:
"Điều 15. Thông báo về việc tổ chức thực hiện khuyến mại
1. Thương nhân thực hiện các hình thức khuyến mại quy định tại Mục 2 Chương này phải gửi thông báo bằng văn bản về chương trình khuyến mại đến Sở Thương mại 1 nơi tổ chức khuyến mại chậm nhất 7 (bảy) ngày làm việc trước khi thực hiện khuyến mại.
Tại công văn số 545/CT-TTr ngày 25/01/2013 có nêu: "Công ty TNHH TM&DV Sinh Phượng (Công ty Sinh Phượng) thực hiện hợp đồng phân phối cho Công ty TNHH Friesland Campina Hà Nam (Công ty sữa Hà Nam), theo như nội dung thể hiện trên hoá đơn thì Công ty Sinh Phượng thực hiện giảm giá cho người tiêu dùng, kết thúc mỗi chương trình Công ty sữa Hà Nam sẽ thực hiện giảm giá cho Công ty Sinh Phượng
Tuy nhiên theo như các hoá đơn số 0025094, ký hiệu HP/12P ngày 22/1 l/2012; hoá đơn số 0002022, ký hiệu SP/12P ngày 9/10/2012 (kèm hồ sơ Cục Thuế hỏi) thì Công ty Sinh Phượng không thực hiện giảm giá mà thực hiện chương trình khuyến mại tặng sản phẩm (sữa các loại) cho khách hàng; cuối đợt Công ty sữa Hà Nam thực hiện xuất trả cho Công ty Sinh Phượng số sản phẩm sữa đã xuất khuyến mại khi bán lẻ cho người tiêu dùng trong kỳ.
Tổng cục Thuế đề nghị Cục Thuế căn cứ các hướng dẫn nêu trên và tình hình kiểm tra thực tế tại doanh nghiệp xác định đây là trường hợp dùng hàng hoá để khuyến mại hay là trường hợp giảm giá bán, chiết khấu thương mại để thực hiện theo quy định.
Tổng cục Thuế thông báo để Cục Thuế được biết./.
Nơi nhận: |
TL. TỔNG CỤC TRƯỞNG |