Chỉ thị 40-TTg năm 1963 về đầu tư khai hoang đồng muối mới do Thủ tướng Chính phủ ban hành

Số hiệu 40-TTg
Ngày ban hành 20/05/1963
Ngày có hiệu lực 04/06/1963
Loại văn bản Chỉ thị
Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Người ký Phạm Hùng
Lĩnh vực Tài nguyên - Môi trường

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 40-TTg

Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 1963 

 

CHỈ THỊ

VỀ VIỆC ĐẦU TƯ KHAI HOANG ĐỒNG MUỐI MỚI

Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tiến hành khai phá những vùng đất hoang ven bể thành đồng muối, trước đây Chính phủ đã có chủ trương Nhà nước cấp phát toàn bộ kinh phí để khoanh vùng, làm đê, kè, cống và đào kênh lớn. Các hợp tác xã khai hoang chỉ phải bỏ công sức khai phá thành ruộng và tiến hành sản xuất.

Nhưng các hợp tác xã khai hoang phần nhiều là hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang nghề muối, lúc đầu còn nhiều khó khăn, sản lượng muối lại thấp.

Vì vậy, theo đề nghị của Bộ Công nghiệp nhẹ, Hội đồng Chính phủ trong phiên họp Thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày 27 tháng 04 năm 1963 đã quyết định:

1. Đối với việc làm đê kè cống và đào kênh lớn theo quy hoạch những vùng khai hoang làm đồng muối: Nhà nước vẫn cấp phát toàn bộ kinh phí như trước.

- Về công khai hoang như nhổ sú vẹt, san phằng cánh đồng thành ruộng và đào mương loại trung bình trong các đồng muối ấy: Nhà nước trợ cấp cho hợp tác xã không phải hoàn lại một nửa phí tổn (khoảng 1.200đ trên 1 éc-ta khai hoang); hợp tác xã chỉ phải chịu một nửa phí tổn và được vay dài hạn ở Ngân hàng Nhà nước số vốn cần thiết để chi trả nhân công khai hoang.

2. Chi phí vào việc đào mương nhỏ, xây ô, nề, thống, chạc và mua sắm dụng cụ sản xuất; hợp tác xã khai hoang phải chịu toàn bộ. Nếu thiếu vốn, hợp tác xã cũng được vay Ngân hàng Nhà nước như các hợp tác xã nghề muối vay để sửa sang đồng muối và chuẩn bị sản xuất mỗi khi đến vụ.

3. Để khuyến khích việc khai hoang mở rộng diện tích sản xuất muối và đảm bảo cho hợp tác xã khai hoang có khả năng trả nợ Ngân hàng trong thời hạn 5 năm, giảm bớt khó khăn lúc đầu, số muối sản xuất ra sẽ được thu mua theo giá khuyến khích cao hơn giá muối sản xuất trên đồng muối cũ 0,01/1 kilô trong thời hạn hai năm kể từ ngày vỡ hoang xong.

4. Những hợp tác xã khai hoang đồng muối trên quy mô nhỏ độ năm bảy éc-ta hay mở rộng thêm đồng muối cũ thì không được trợ cấp một nửa công khai hoang như điều 1 trên đây mà chỉ được hưởng giá khuyến khích trong hai năm đầu như điều 3 trên đây.

5. Nhà nước sẽ đầu tư vào việc khai hoang đồng muối theo quy hoạch năm 1963 (một nửa tổng số chi phí về công khai hoang và đào mương loại trung bình trên tổng diện tích khai hoang năm 1963). Số tiền này trích trong khoản vốn Ngân sách Nhà nước đã bố trí để cho vay dài hạn và giao cho Ngân hàng Nhà nước cấp phát cho các hợp tác xã khai hoang trên quy mô lớn ở các địa phương.

6. Để đảm bảo hoàn thành kế hoạch sản xuất muối năm 1963, đưa số diện tích đang khai hoang nhanh chóng đi vào sản xuất trong năm nay càng nhiều càng tốt và đỡ tốn phí, Hội đồng Chính phủ chỉ thị cho các ngành có liên quan và Ủy ban hành chính các tỉnh có khai hoang đồng muối như sau:

- Bộ Công nghiệp nhẹ cần bàn với Bộ Nông trường và Ủy ban kiến thiết tìm biện pháp giúp đỡ phương tiện cơ giới trong quá trình thi công;

Ủy ban hành chính các địa phương có đồng muối khai hoang cần tăng cường việc lãnh đạo các hợp tác xã khai hoang bố trí kế hoạch cụ thể tiến hành khai hoang từng đợt, làm đến đâu tranh thủ đưa vào sản xuất ngay đến đó rồi tiến hành đợt khác;

- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính có trách nhiệm phối hợp cùng với Ủy ban hành chính các tỉnh quản lý chặt chẽ số vốn đầu tư vào khai hoang đồng muối, phát huy hiệu quả đồng vốn trên cơ sở nâng cao năng suất lao động hạ thấp chi phí khai hoang;

- Bộ Công nghiệp nhẹ có trách nhiệm cùng với Ủy ban hành chính các tỉnh đảm bảo hoàn thành đúng kế hoạch khai hoang đồng muối về diện tích, sản lượng và thời gian.

 

 

T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
 
 


Phạm Hùng