Chỉ thị 15/2011/CT-UBND thực hiện nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai do tỉnh Đắk Lắk ban hành
Số hiệu | 15/2011/CT-UBND |
Ngày ban hành | 30/12/2011 |
Ngày có hiệu lực | 09/01/2012 |
Loại văn bản | Chỉ thị |
Cơ quan ban hành | Tỉnh Đắk Lắk |
Người ký | Lữ Ngọc Cư |
Lĩnh vực | Bất động sản,Bộ máy hành chính |
ỦY BAN NHÂN DÂN |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 15/2011/CT-UBND |
Đắk Lắk, ngày 30 tháng 12 năm 2011 |
CHỈ THỊ
VỀ THỰC HIỆN MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CẤP BÁCH ĐỂ CHẤN CHỈNH VIỆC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, QUYỀN SỞ HỮU NHÀ Ở VÀ TÀI SẢN KHÁC GẮN LIỀN VỚI ĐẤT VÀ XÂY DỰNG CƠ SỞ DỮ LIỆU ĐẤT ĐAI.
Trong thời gian qua, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, các Sở, Ban, Ngành và Ủy ban nhân dân các cấp trong tỉnh đã có nhiều cố gắng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đến 31 tháng 12 năm 2010, tỷ lệ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là Giấy chứng nhận) cho tổ chức và hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh đạt 74%, với tổng diện tích là 789.670 ha. Kết quả trên thể hiện các cấp, các ngành, các địa phương đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra. Việc đăng ký, cấp Giấy chứng nhận, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai còn chậm; việc cập nhật, chỉnh lý biến động hồ sơ địa chính chưa được thực hiện đầy đủ, thường xuyên, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng dữ liệu hồ sơ địa chính chưa cao.
Nguyên nhân chủ yếu là do diện tích đất được đo đạc, lập bản đồ địa chính chưa khép kín; tiến độ thực hiện Dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý đất đai (sau đây gọi là Dự án tổng thể) được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 3425/QĐ-UBND, ngày 15 tháng 12 năm 2008 còn chậm do thiếu kinh phí; thủ tục cấp Giấy chứng nhận ở một số địa phương chậm được cải cách, còn phiền hà, phức tạp, vượt quá thời gian quy định; việc xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai chưa thật sự được chú trọng; hệ thống Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất các cấp năng lực còn hạn chế do thiếu cán bộ và các điều kiện làm việc cần thiết theo yêu cầu nhiệm vụ được giao; ý thức chấp hành pháp luật trong việc đăng ký quyền sử dụng đất của các tổ chức, cá nhân chưa nghiêm, nhất là các cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên; đồng thời chấn chỉnh và đẩy mạnh việc cấp Giấy chứng nhận, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm công bằng, minh bạch trong các quan hệ về sử dụng đất đai và sở hữu tài sản gắn liền với đất, Ủy ban nhân dân tỉnh yêu cầu:
1. Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố:
a) Tập trung chỉ đạo đẩy nhanh việc cấp Giấy chứng nhận ở địa phương, nhất là đất ở đô thị và đất ở nông thôn; đối với các xã, phường, thị trấn chưa triển khai thực hiện Dự án tổng thể nhưng đã có bản đồ địa chính, bản đồ giải thửa mà chưa sử dụng, sử dụng chưa đáng kể hoặc chưa có bản đồ địa chính, bản đồ giải thửa thì phải rà soát, cập nhật, chỉnh lý biến động hoặc trích đo bản đồ địa chính đưa vào sử dụng để kê khai đăng ký, cấp Giấy chứng nhận và lập hồ sơ địa chính; đối với các xã, phường, thị trấn đang triển khai thực hiện dự án tổng thể thì chỉ đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp với các đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ kê khai đăng ký và xét duyệt hồ sơ cấp Giấy chứng nhận theo thôn, buôn với nguyên tắc đo vẽ xong bản đồ địa chính đến đâu phải thực hiện ngay việc kê khai đăng ký, cấp Giấy chứng nhận, lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đến đó; hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp huyện giao chỉ tiêu kế hoạch cấp Giấy chứng nhận cho Phòng Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp xã làm cơ sở để nhận xét, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
b) Chỉ đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất rà soát toàn bộ hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận và hồ sơ đăng ký biến động đất đai đã tiếp nhận, tiến hành xét duyệt, chuyển cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính, thông báo nghĩa vụ tài chính cho chủ sử dụng đất và tham mưu cấp Giấy chứng nhận theo quy định, không để tồn đọng; số Giấy chứng nhận đã ký chưa trao còn tồn đọng tại Phòng Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân dân cấp xã cần tập trung rà soát, phân loại và xác định nguyên nhân (do lỗi kỹ thuật, chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính,...), thông báo cho chủ sử dụng đất biết để liên hệ làm thủ tục nhận Giấy chứng nhận, phấn đấu giải quyết xong các công việc này trước 31 tháng 12 năm 2011.
Những trường hợp sử dụng đất có nguồn gốc vi phạm pháp luật đất đai còn tồn đọng, phức tạp, có tính phổ biến thì Ủy ban nhân dân cấp huyện tổng hợp, báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh thông qua Sở Tài nguyên và Môi trường xem xét, đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh xử lý dứt điểm trong 2 năm (2011- 2012) để lập hồ sơ quản lý.
c) Triển khai thực hiện nghiêm túc Quyết định số 18/2011/QĐ-UBND, ngày 04 tháng 8 năm 2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ban hành Quy định về cơ chế một cửa liên thông trong lĩnh vực cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất của cấp huyện trên địa bàn tỉnh; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do địa phương ban hành hoặc do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành trái với Quyết định số 18/2011/QĐ-UBND và các quy định pháp luật hiện hành để thay thế, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ (nếu có), công việc này hoàn thành trong năm 2011. Công bố công khai Quyết định số 18/2011/QĐ-UBND trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân thực hiện, giám sát; đồng thời, thông báo số điện thoại nóng để người dân phản ánh tình hình.
d) Tăng cường quản lý đất lâm nghiệp, phát hiện, xử lý kịp thời các vụ vi phạm pháp luật về đất đai. Thu hồi toàn bộ đất lâm nghiệp bị lấn chiếm trái pháp luật để trồng lại rừng; chấm dứt tình trạng mua, bán và "hợp thức hóa" quyền sử dụng đất do phá rừng trái pháp luật.
đ) Chỉ đạo đài phát thanh, truyền hình địa phương, Ủy ban nhân dân cấp xã thường xuyên tuyên truyền sâu rộng chủ trương thực hiện Dự án tổng thể trên địa bàn bằng nhiều hình thức như: phát thanh, truyền hình, báo chí...để người sử dụng đất nhận thức được trách nhiệm phối hợp thực hiện Dự án; quyền lợi khi được cấp Giấy chứng nhận và tự giác làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật.
e) Hàng năm bố trí kinh phí từ ngân sách địa phương để thực hiện việc đo đạc chỉnh lý bản đồ địa chính, cấp Giấy chứng nhận, đăng ký biến động đất đai và chỉnh lý hồ sơ địa chính thường xuyên; trong đó, cần ưu tiên thực hiện trước ở đô thị và các địa bàn có tình hình sử dụng đất phức tạp.
f) Kiện toàn Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất bảo đảm có đủ nhân lực, kinh phí và các điều kiện làm việc cần thiết để thực hiện chức năng, nhiệm vụ; trang bị máy quét để thực hiện việc quét lưu dạng ảnh hồ sơ cấp Giấy chứng nhận vào cơ sở dữ liệu đất đai theo quy định.
g) Tổ chức sơ kết, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện Chỉ thị này trên địa bàn cấp huyện trong tháng 12 năm 2012.
2. Sở Tài nguyên và Môi trường
a) Rà soát lại toàn bộ nội dung của Dự án tổng thể, xác định cụ thể khối lượng nhiệm vụ đã thực hiện đến ngày 31 tháng 12 năm 2010, khối lượng nhiệm vụ đang thực hiện và còn phải thực hiện đến khi Dự án kết thúc gửi Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến chính thức, trình Ủy ban nhân dân tỉnh bổ sung, điều chỉnh Quyết định số 3425/QĐ-UBND, ngày 15 tháng 12 năm 2008 về việc phê duyệt Dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý đất đai tỉnh Đắk Lắk.
b) Đôn đốc, kiểm tra, giám sát thường xuyên việc chấp hành các quy định của pháp luật và tiến độ thực hiện Dự án tổng thể để hướng dẫn, khắc phục, giải quyết những khó khăn vướng mắc và xử lý kịp thời các vi phạm trong quá trình thực hiện; bảo đảm sản phẩm của Dự án phải được kiểm tra, nghiệm thu đúng quy trình, quy phạm, đưa vào sử dụng phục vụ tốt yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai.
c) Chỉ đạo hoàn thành việc cấp Giấy chứng nhận cho các tổ chức theo Quyết định số 2043/QĐ-UBND ngày 14 tháng 8 năm 2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh; chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân cấp huyện đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh giải quyết các vướng mắc trong công tác cấp Giấy chứng nhận.
d) Thường xuyên chỉ đạo theo dõi, cập nhật, chỉnh lý biến động đất đai ở các cấp, phát huy hiệu quả của hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu địa chính và thực hiện tốt việc thống kê đất đai định kỳ hàng năm.
đ) Phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức các lớp tập huấn nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
e) Tổ chức theo dõi, đôn đốc, tổng hợp và báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường định kỳ 6 tháng, hàng năm và phối hợp với các ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức sơ kết vào tháng 12 năm 2012 về tình hình thực hiện các nhiệm vụ nêu tại Chỉ thị này.
3. Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính
Tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí tối thiểu 10% trong tổng số nguồn thu từ tiền sử dụng đất, tiền thuê đất để thực hiện Dự án tổng thể xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu quản lý đất đai tỉnh Đắk Lắk.
4. Cục thuế tỉnh, Chi Cục thuế cấp huyện, cơ quan quản lý nhà ở, công trình xây dựng và cơ quan quản lý nhà nước về nông nghiệp phối hợp thực hiện nhiệm vụ cấp Giấy chứng nhận đúng thời gian quy định.
5. Sở Nội vụ căn cứ vào diện tích đất đai, dân số và tình hình kinh tế, xã hội của từng đơn vị hành chính cấp huyện, tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí biên chế bổ sung cho Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Chỉ thị này thay thế Chỉ thị số 06/2008/CT-UBND ngày 21 tháng 5 năm 2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn tỉnh.