Công ước Geneva bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ

Số hiệu Khongso
Ngày ban hành 29/10/1971
Ngày có hiệu lực 06/07/2005
Loại văn bản Điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành ***
Người ký ***
Lĩnh vực Sở hữu trí tuệ,Văn hóa - Xã hội

CÔNG ƯỚC GENEVA

BẢO HỘ NHÀ SẢN XUẤT BẢN GHI ÂM CHỐNG VIỆC SAO CHÉP KHÔNG ĐƯỢC PHÉP BẢN GHI ÂM CỦA HỌ (CÓ HIỆU LỰC TẠI VIỆT NAM TỪ NGÀY 6 THÁNG 7 NĂM 2005)

Công ước bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ (29/10/1971)

Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới - GENEVA 1993

Các Quốc gia ký kết,

Lo ngại trước tình trạng tràn lan và tăng nhanh bản sao không được phép của các bản ghi âm và thiệt hại của tình trạng đó gây ra đối với lợi ích của tác giả, người biểu diễn, và nhà sản xuất bản ghi âm;

Nhận thấy rằng việc bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống các hành vi trên còn đem lại lợi ích cho những người biểu diễn có tiết mục biểu diễn, và những tác giả có tác phẩm, được ghi trong bản ghi âm đó;

Công nhận giá trị công việc đạt được trong lĩnh vực này của Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hiệp quốc và Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới;

Mong muốn không ảnh hưởng theo bất kỳ cách thức nào tới các thoả thuận quốc tế đang có hiệu lực và đặc biệt là không gây cản trở bằng bất kỳ cách thức nào đến việc chấp nhận rộng rãi hơn nữa Công ước Rome ngày 26/10/1961 quy định về việc bảo hộ người biểu diễn và các tổ chức phát thanh truyền hình cũng như nhà sản xuất bản ghi âm;

Đã thoả thuận như sau:

Điều 1. Định nghĩa*

Trong Công ước này:

(a). "Bản ghi âm" là bất kỳ bản định hình các âm thanh biểu diễn hoặc các âm thanh khác dành riêng cho cơ quan thính giác;

(b). "Nhà sản xuất bản ghi âm" là người, hoặc pháp nhân định hình lần đầu các âm thanh của buổi biểu diễn hoặc các âm thanh khác;

(c). "Bản sao" là vật hàm chứa các âm thanh được sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp từ bản ghi âm và nó biểu hiện toàn bộ hoặc phần chủ yếu của các âm thanh được định hình trong bản ghi âm đó;

(d). "Phân phối tới công chúng" có nghĩa là bất kỳ hành vi nào mà thông qua đó các bản sao của bản ghi âm được đưa ra chào bán trực tiếp hoặc gián tiếp cho rộng rãi công chúng hoặc bất kỳ bộ phận công chúng nào.

Điều 2. Các nghĩa vụ của quốc gia ký kết; các quốc gia ký kết phải bảo hộ những ai và chống lại cái gì

Mỗi quốc gia ký kết sẽ bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm là công dân của các quốc gia ký kết khác chống lại việc làm bản sao mà không được sự đồng ý của nhà sản xuất bản ghi âm đó và chống lại việc nhập khẩu các bản sao đó, với điều kiện là việc làm bản sao hoặc nhập khẩu đó là nhằm mục đích phân phối tới công chúng, và chống lại việc phân phối các bản sao đó tới công chúng.

Điều 3. Phương thức thi hành của các quốc gia ký kết

Phương thức thi hành Công ước này là vấn đề của pháp luật quốc gia của mỗi quốc gia ký kết và gồm một hoặc nhiều phương thức sau: bảo hộ thông qua việc cho hưởng quyền tác giả hoặc quyền cụ thể khác; bảo hộ thông qua luật về cạnh tranh bất chính; bảo hộ thông qua các chế tài hình sự.

Điều 4. Thời hạn bảo hộ

Thời hạn bảo hộ sẽ tuỳ thuộc vào pháp luật quốc gia của mỗi quốc gia ký kết. Tuy nhiên, nếu luật pháp quốc gia quy định một thời hạn cụ thể cho sự bảo hộ này, thì thời hạn đó sẽ không ít hơn hai mươi năm kể từ khi kết thúc của năm mà các âm thanh thể hiện trong bản ghi âm được ghi lần đầu hoặc của năm mà bản ghi âm được công bố lần đầu.

Điều 5. Thủ tục hình thức

Nếu, một quốc gia ký kết, theo pháp luật quốc gia của mình, yêu cầu tuân thủ cácthủ tục hình thức với tư cách là điều kiện cho việc bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm, các thủ tục hình thức này được coi là đã hoàn tất nếu tất cả các bản sao được phép của bản ghi âm được phân phối tới công chúng hoặc bao gói của chúng mang dấu hiệu có biểu tượng (P), cùng với năm công bố lần đầu, được trình bày theo cách thức nhằm tạo ra một dấu hiệu hợp lý chỉ rõ về yêu cầu bảo hộ; và nếu các bản sao hoặc bao gói của chúng không chỉ rõ nhà sản xuất, người thừa kế hợp pháp hoặc người được cấp li-xăng độc quyền (bằng việc đưa tên, nhãn hiệu hàng hoá hoặc các chỉ dẫn phù hợp khác), dấu hiệu cũng có thể gồm tên của nhà sản xuất, người thừa kế hợp pháp hoặc người được cấp li-xăng độc quyền.

Điều 6. Hạn chế bảo hộ

Bất kỳ quốc gia ký kết nào dành sự bảo hộ thông qua phương thức quyền tác giả hoặc quyền cụ thể khác, hoặc sự bảo hộ thông qua phương thức các chế tài hình sự, đều có thể quy định trong pháp luật quốc gia của quốc gia mình, liên quan tới việc bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm, về các loại hạn chế tương tự như đã quy định đối với việc bảo hộ các tác giả của các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên, không cho phép bất kỳ một li-xăng cưỡng bức trừ khi đáp ứng tất cả các điều kiện sau đây:

(a). Việc sao chép chỉ dành cho việc sử dụng nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học;

(b). Li-xăng chỉ có hiệu lực đối với việc sao chép trong phạm vi lãnh thổ quốc gia ký kết có cơ quan có thẩm quyền đã cấp li-xăng đó và không mở rộng áp dụng đối với việc xuất khẩu các bản sao;

(c). Việc sao chép thực hiện theo li-xăng là cơ sở của khoản thù lao thoả đáng do cơ quan có thẩm quyền nói trên ấn định có tính tới, ngoài các vấn đề khác, số lượng bản sao sẽ được tạo ra;

Điều 7. Ghi nhận: 1. Bảo vệ quyền tác giả và quyền kề cận; 2. Bảo hộ người biểu diễn; 3. Không hồi tố; 4. Thay thế tiêu chuẩn ghi âm

[...]