ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
15/CT-UB
|
Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 4 năm 1977
|
CHỈ THỊ
VỀ
PHƯƠNG HƯỚNG KẾ HOẠCH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TỆ NẠN XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ TRONG 2 NĂM
1977 - 1978
I.-MỘT SỐ NÉT VỀ TÌNH HÌNH
a/ Sau ngày giải phóng thành phố
cùng với nhiều công việc khác, chúng ta đã quan tâm đến việc từng bước ổn định
đồi sống, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân kết hợp với việc bài trừ
từng bước các tệ nạn xã hội.
Tháng 9/1976 theo sự chỉ đạo của
Thành ủy trong 2 Chỉ thị số 16 - 17 về giải quyết trật tự an toàn xã hội, chúng
ta đã tiến hành việc giải quyết tệ nạn xã hội với những biện pháp tích cực,
thiết thực, có sự kết hợp của nhiều ngành (trong Ban chỉ đạo giữ gìn trật tự xã
hộ) và dùng nhiều biện pháp : học tập điều lệ bảo vệ an ninh Tổ quốc trong nhân
dân, phân loại đối tượng tiến hành cải tạo tại chỗ, cải tạo tập trung, cưỡng
bức lao động.. và đã thâu được một số kết quả :
- Qua học tập tài liệu “Bảo vệ
an ninh Tổ quốc”, bước đầu xây dựng được ý thức làm chủ tập thể của quần chúng
trong việc giữ gìn trật tự an ninh, nhiều phường xã, tổ dân phố xây ựng qui ước
trị an. Quần chúng đã góp nhiều ý kiến, phát hiện đối tượng chánh trị, hình sự.
Trước khí thế của quần chúng có một số đối tượng ra tự thú trước nhân dân (Bình
Thạnh).
- Năm 1976 tiến hành truy quét,
gom bắt gần 20.000 tên và tập trung cải tạo gần 7.500 tên, Sở Thương binh xã
hội đã thu gom,quản lý trên 7.000 gái điếm, xì ke ma túy, bụi đời ăn xin lang
thang trên đường phố. Sở Y tế gom gần 100 người cùi và bệnh tâm thần ở các vỉa
hè, chợ búa.. Thành đoàn Thanh niên đã tiến hành cưỡng bức lao động trên 1000
thanh niên v.v...
Nhớ kết quả đó, tệ nạn xã hội ở
Thành phố nói chung có giảm :
- Ăn mày ăn xin giảm rõ rệt nhứt
là ở trung tâm Thành phố và các chợ lớn. Nhưng gần đây, tệ nạn ăn ngủ vỉa hè,
các công viên tăng lên do người ở các tỉnh và người đi vùng kinh tế mới về.
- Tệ nạn mãi dâm có giảm, các tổ
chức, hệ thống bar, bia ôm.. công khai bị quét, một số gái mãi dâm được đưa vào
các trường phục hồi nhân phẩm và hồi hương lập nghiệp. Nhưng gần đây lại xuất
hiện những hình thức mới : cine ôm, đón và tiếp khách tại nhà, ở khách sạn ban
ngày. Gái mãi dâm lỡ làng có chiều phát triển do đời sống quá khó khăn mà hầu
hết là vợ con sĩ quân ngụy đang còn cải tạo, vợ con người ngoại kiều đã về nước
và người đang thất nghiệp. Ước tính còn khoảng 40.000 người làm nghề mãi dâm.
Ta mới có 3 trường phục hồi nhân phẩm cho loại này chỉ chứa đuợc trên 2.000.
- Nạn xì ke ma túy giảm chậm do
ta không đủ cơ sở tập trung họ. Nguồn nhận ma túy ồ át đã bị cắt, chúng chỉ còn
dùng thuốc phiện đen với giá rất cao (từ 30đ đến 100đ 1 liều). Để có tiền hút,
chích xì ke, bọn này không từ một thủ đoạn nào để giết người, cướp giựt, trộm
cắp, lừa đảo.. cho nên loại này là một trong những đối tượng gây ra mất trật tự
trị an xã hội : ước tính số này hiện còn khoảng 10. 000.
- Về trẻ bụi đời, mồi côi : tuy
đã có tập trung gần 4.000 đứa vào 10 cơ sở nuôi dạy thiếu nhi nhưng dự kiến còn
khoảng 1 vạn. Số này hầu hết đều phạm tội trộm cắp, lừa đảo, một số trở thành
lưu manh du đãng, gây mất trật tự trị an ở đường phố.
Kết quả việc giải quyết tệ nạn
xã hội trên, đã giảm được 15% số vụ việc phạm pháp hình sự so với cuối năm 1976
(trước trung bình 1.050 vụ/tháng, nay còn 900 vụ/tháng). Nhưng những vụ giết
người, trọng án không giảm.
b/ Thời gian qua, thực hiện Chỉ
thị của Thành ủy và Kế hoạch của Ủy ban nhân dân Thành phố, các ngành các cấp
đã có nhiều cố gắng, nhưng kết quả thâu được còn bị hạn chế, bởi :
- Phong trào quần chúng tuy có phát
động nhưng chưa toàn diện và đồng bộ, chưa sâu, chưa liên tục, còn nặng mặt
trật tự an ninh, chưa đi sâu vào nội dung xây dựng con người mới, bài trừ tệ
nạn xã hội, chưa huy động tốt các đoàn thể.
- Sự phối hợp giữa các ngành,
các đoàn thể chưa nhịp nhàng, một số nơi còn khoán trắng cho công an, cho
Thương binh xã hội. Các đoàn thể chưa chủ động gắn nội dung của công tác bài
trừ tệ nạn xã hội vào phong trào của giới mình, đặc biệt chưa phát huy sức mạnh
tổng hợp của các lực lượng chánh quyền, đoàn thể, quần chúng, nhứt là ở các cơ
sở để quản lý địa bàn, khống chế và cải tạo đối tượng tạo 1 thế lực áp đảo tại
chỗ làm cho các loại đối tượng phải ngán sợ.
Trong thực hiện, còn nặng mặt
cải tạo tập trung hơn cải tạo tại chỗ. Trong cải tạo tại chỗ chỉ mới làm được
việc tổ chức đưa đối tượng ra kiểm đỉểm, chưa có biện pháp giáo dục quản lý
tiếp theo, và mặt tạo công ăn việc làm, giải quyết đồi sống tạo điều kiện cho
họ đi vào lao động sãn xuất còn chậm.
- Tổ chức, lực lượng, cơ sở vật
chất chưa phù hợp với yêu cầu công việc : tổ chức chưa rõ, cán bộ chưa đủ, cơ
sở, phương tiện thiếu, v.v... kế hoạch xây dựng trường trại thực hiện quá chậm,
cơ sở trường trại thiếu nhiều điều kiện phương tiện để thực hiện tốt nhiệm vụ.
Các bộ phận có liên quan cung cấp vật tư chưa ý thức rõ vấn đề nên phục vụ cho
công tác này chưa tốt gây nhiều trở ngại khó khăn cho việc tiến hành công tác.
c. Ủy ban các cấp cũng như các
ngành giới nhiều nơi nhứt là ở cơ sở chưa thấy đầy đủ trách nhiệm về quán xuyến
địa bàn của mình trong vấn đề chống tệ nạn xã hội, các nơi còn ỷ lại cấp trên
hoặc bộ phận chuyên trách. Nhiều nơi Ủy ban chưa bố trí kế hoạch thường xuyên
lãnh đạo vấn đề mà nặng về đợt.
Thực hiện công tác này thành phố
ta có những khó khăn lớn :
- Nếp sống, nếp suy nghĩ, nếp
làm ăn của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ để lại còn ăn sâu trong 1 bộ
phận khá lớn quần chúng. Các loại đối tượng tệ nạn xã hội còn nhiều (hàng chục
vạn người), tuy 2 năm qua ta có truy quét gom bắt 1 số nhưng trong thực tế lại
xuất hiện 1 số đối tượng mới do quen nếp sống cũ và đời sống gặp nhiều khó
khăn.
- Công việc của ta quá nhiều,
lực lượng cán bộ và cơ sở vật chất của ta có hạn.
Nhưng từ năm nay trở đi, chúng
ta lại có những thuận lợi lớn, có khả năng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ :
- Công cuộc cải tạo và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Thành phố đang đi vào cao trào, có kế hoạch. Cuộc cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh đang phát triển, phong trào lao động với
khẩu hiệu “Tất cả cho sản xuât” đang được phát động, nhiều công trình mới đã và
sẽ bắt đầu xây dựng có khả năng thu hút hàng chục vạn người. Quần chúng nhân
dân Thành phố ta rất tốt, nhiệt tình hưởng ứng mọi phong trào do Đảng phát
động. Phong trào bài trừ tệ nạn xã hội này đã chín mùi, đã là sự đỏi hòi bức
thiết của quần chúng... Tất các các phong trào trên sẽ là cơ sở đảm bảo, hỗ trợ
cho sự nghiệp cải tạo tư tưởng văn hóa nói chung và công cuộc bài trừ tệ nạn xã
hội nói riêng đi vào cao trào chung.
- Được Trung ương và Thành ủy
quan tâm chỉ đạo. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã chính thức đặt vấn đề, hứa sẽ
chi viện, kể cả việc không hạn chế chi phí cho mặt công tác này. Tập thể Thường
vụ Thành ủy đã thông qua kế hoạch phương hướng và vấn đề này sẽ được ghi vào
Nghị quyết Đảng bộ Thành phố. Ta có lực lượng của 60 vạn cán bộ đoàn viên hội
viên các đoàn thể, có bộ máy chánh quyền phường xã bước đầu được củng cố, có 1
đội ngũ của 3.000 công an cảnh sát khu vực, 3 vạn tổ trưởng tổ dân phố và hàng
vạn dân quân tự vệ du kích, v.v... nếu tổ chức và chĩ đạo tốt, hợp đồng chặt
chẽ lực lượng này sẽ là 1 sức mạnh áp đảo đủ sức giáo dục, quản lý cải tạo mọi
loại tệ nạn xã hội.
- Ta đã tiến hành, thâu được một
số kết quả và đã có 1 số kinh nghiệm Từ kết quả và kinh nghiệm đã có, chúng ta
có cơ sở để đẩy mạnh công tác bài trừ tệ nạn xã hội ở Thành phố một cách triệt
để và toàn diện hơn, tin tưởng sẽ thâu nhiều kết quả lớn hơn.
II.- PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ
1. Mục tiêu phấn đấu :
Cùng với việc phấn đấu thực hiện
các mục tiêu khác của kế hoạch nhà nước 5 năm 1976 –1980, công tác bài trừ tệ
nạn xã hội phải được giải quyết một cách cơ bản, giảm 70% số vụ việc xảy ra.
Trong 2 năm 1977 – 1978, phấn
đấu giảm từ 40 tới 50% và riêng năm 1977 phấn đấu giảm 20 tới 25% số tệ nạn xã
hội.
2. Yêu cầu phương châm :
Để đạt mục tiêu trên, cần phấn
đầu thực hiện tốt các yêu cầu phương châm sau đây :
a/ Phát động thành phong trào
quần chúng rộng rãi và liên tục. Nội dung phong trào là kết hợp chặt chẽ giữa
giáo dục xây dựng nếp sống mới, gia đình văn hóa mới với đấu tranh cải tạo bài
trừ tệ nạn xã hội trong từng gia đình, phường xã. gắn chặt phong trào xây dựng
nếp sống mới, gia đình văn hóa mới, bài trừ tệ nạn xã hội với các phong trào
lao động sản xuất, bảo vệ an ninh Tổ quốc và các phong trào thi đua khác của
từng ngành, từng giới. Từ phong trào quần chúng mà phát hiện lên danh sách đối
tượng tệ nạn xã hội trong từng gia đình, khu phố, ấp, từng phường xã. Gia đình,
khu phố, ấp, phường, xã có trách nhiệm giáo dục và quản lý đối tượng, lấy giáo
dục quản lý tại chỗ là chủ yếu.
Gia đình phấn đấu, tổ dân phố,
ấp và phường xã phấn đấu, từng tổ đoàn thể phấn đấu tạo thành sức mạnh tổng hợp
trong giáo dục, quản lý và cải tạo tốt đối tượng dành danh hiệu gia đình văn
hòa mới, tổ dân phố, ấp, tổ thanh niên, phụ nữ công đoàn, nông hội, phường xã
văn hóa mới.
b/ Để triển khai đồng bộ và toàn
diện trong tất cả các ngành chánh trị, kinh tế, văn hóa, và hội... Gắn chặt
việc giáo dục đấu tranh cải tạo với việc giải quyết việc làm, ổn định đời sống,
tạo điều kiện cho mọi người tiếp thu và phát huy tốt kết quả của giáo dục và
cải tạo.
Trong phong trào chung, phấn đấu
đưa đối tượng đi vào lao động sản xuất, tạo cho họ có việc làm, ai không chịu
lao động, ta phải cưỡng bức họ lao động. Cưỡng bức lao động là vì tình thương
giai cấp đối với họ, nhằm tạo điều kiện cho họ trở thành người công dân tốt.
Sắp tới, Thành phố ta sẽ mở ra nhiều công trường lớn nhỏ, thu hút hàng chục vạn
người, cho nên ta có khả năng giải quyết việc làm cho họ.
c. Kết hợp nhiều biện pháp : cải
tạo tại chỗ, cưỡng bức lao động, tập trung cải tạo.
1- Cải tạo tại chỗ là mặt chủ
yếu của công tác cải tạo vì nó rộng rãi, gắn chặt với sự giáo dục quản lý của
gia đình, khu phố xóm phường, đoàn thể ; do phường xã và các đoàn thể phụ
trách. Hình thức cải tạo tại chỗ áp dụng đối với số chơi bời trụy lạc, trác
táng, cao bồi không có tội gì nặng nhưng tác động xấu trong khu phố, xóm phường
(loại 4). Phát hiện, lên danh sách đến đâu, giao cho gia đình, tổ dân phố, đoàn
thể có kế hoạch phân công giáo dục và quản lý.
2- Cưỡng bức lao động áp dụng
đối với người có sức lao động nhưng không chịu lao động, sống lêu lổng, làm
những nghề bất chánh đi lang thang, tụ tập đàng điếm tuy có phạm tội nhưng tội
nhẹ (loại 3) ở mức giữa loại 4 và và loại 1,2. Trước mắt áp dụng đối với thanh
niên từ 17 đến 30 tuổi (trừ trường hợp đặc biệt) do thanh niên phụ trách. Ngoài
việc tập trung vào trường “Thanh niên xây dựng cuộc sống mới” Thành đoàn tổ
chức cho thanh niên lao động cưỡng bức ở các công trường, nông trường do thanh
niên xây dựng. Số cưỡng bách lao động trong công trường, nông trường do Thanh
niên phụ trách sẽ do Công an lập hồ sơ có sự tham khảo và nhất trí của Chi đoàn
Thanh niên, Ủy ban nhân dân Phường xã xét đề nghị lên Ủy ban nhân dân quận
duyệt với sự tham khảo ý kiến Công an Quận, Sở Công an sẽ tập trung giao cho
Thành đoàn tổ chức cải tạo.
3- Tâp trung cải tạo áp dụng đối
với số đầu sỏ lưu manh, chủ chứa (loại 1) lưu manh, gái điếm.. chuyên nghiệp
(loại 2) loại này gia đình, tổ dân phố không có điều kiện quản lý, các đơn vị
lao động tập trung cũng không quản lý cải tạo được, do tổ dân phố phường xã và
đoàn thể đề nghị công an lập hồ sơ báo cáo với Ủy ban nhân dân phường, đồng
thời đề nghị lên trên, Sở Công an xem xét và Ủy ban nhân dân Thành phố xét
duyệt. Cải tạo tập trung có loại do ngành Công an phụ trách (số lưu manh, chủ
chứa chuyên nghiệp đã từng gây tội phạm), có loại do ngành thương binh xã hội
đảm nhiệm (gái mãi dâm, xì ke ma túy, trẻ bụi đời, ăn mày ăn xin) có loại do Y
tế (cùi hủi).
Nuôi dưỡng tập trung là chế độ
của xã hội đối với người già tàn tật, trẻ mồ côi.
Thực hiện các yêu cầu và biện
pháp trên, dự kiến trong 2 năm 1977 – 1978 sẽ :
- Giảm từ 40 đến 50% tệ nạn mãi
dâm, xì ke ma túy. Riêng năm 1977 phấn đấu giảm từ 20 đến 25%.
- Tập trung 60 tới 70% số trẻ em
bụi đời không nơi nương tựa. Năm 1977 giải quyết từ 30 tới 40%.
- Chấm dứt cơ bản tệ nạn ăn mày
ăn xin ở đường phố bằng cách thu gom đưa họ vào các trại nuôi dưỡng và chọn lựa
đưa người còn sức lao động vào các cơ sở sản xuất.
- Chấm dứt tình trạng những
người cùi sống lang thang ngoài đường phố bằng cách tập trung họ đưa về trại
cùi tập trung Bến Sắn.
- Tập trung cưỡng bức lao động
khoảng 15.000 thanh niên. Cứ khoảng 6 tháng, ta cho bình bầu tuyển chọn đưa qua
thanh niên xung phong. Năm 1977 phấn đấu cưỡng bức lao động từ 5.000 tới 7.000
thanh niên.
- Tập trung khoảng 12.000 đối
tượng loại 1 và 2. Riêng năm 1977 tập trung từ 5.000 đến 7.000.
d/ Đây là công việc của toàn
Đảng, toàn dân do các cấp các ngành thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
chỉ đạo của Ủy ban nhân dân các cấp. Từng đoàn thể phải gắn nội dung phong trào
bài trừ tệ nạn xã hội vào nội dung hoạt động của đoàn thể mình và có bộ phận
phụ trách. Từng ngành đều có nghĩa vụ tham gia thiết thực vào phong trào, giáo
dục và quản lý tốt cán bộ công nhân viên, thực hiện tốt kế hoạch cải tạo của
ngành, giải quyết tích cực và kịp thời các yêu cầu phục vụ cho công tác bài trừ
xã hội.
Để giúp cấp ủy và chánh quyền
các cấp thống nhất chỉ đạo phong trào, kịp thời rút và phổ biến kinh nghiệm, ở
mỗi cấp cần có tổ chức phụ trách.
Tổ chức và biện pháp thực hiện
cụ thể.
1- Tổ chức đợt sinh hoạt chánh
trị và phát động phong trào bài, trừ tệ nạn xã hội, xây dựng gia đình văn hóa
mới, con người mới trong toàn dân, trong tất cả các đoàn thể.
- Ban Tuyên huấn Thành ủy, Sở
Thông tin văn hóa và các đoàn thể biên soạn tài liệu và hướng dẫn kế hoạch học
tập. Lấy tổ dân phố hoặc tổ đoàn thể để làm đơn vị học tập và phát động phong
trào trong toàn dân và trong từng giới.
- Cơ quan thông tấn báo chí bám
chặt phong trào, thường xuyên đưa tin, nêu gjương tốt việc tốt cổ vũ động viên
phong trào.
- Nghiên cứu tiêu và hình thức
công nhận, chứng nhân gia đình tổ dân phố, tổ đoàn thể văn hóa mới.
- Cơ quan chuyên trách tổ chức
theo dõi, từng đợt có sơ kết rút kinh nghiệm, kế hoạch chỉ đạo và khen thưởng
kịp thời.
2.- Lập danh sách, phân loại đối
tượng và phân công trách nhiệm :
Trên cơ sở học tập phát động
quần chúng, từng phường xã, từng đoàn thể lập danh sách đối tượng tệ nạn xã hội
thuộc phường xã và giới mình.
- Nắm thêm tình hình, nghiên cứu
phân loại : ai nên cải tạo tại chỗ, ai cần tập trung cải tạo, ai nên cưỡng bức
lao động. Từng kỳ 3 hoặc 6 tháng tổ chức xem xét và điều chỉnh việc phân loại
cho phù hợp với thực tế. Phân loại xong, thống kê từng loại tệ nạn trong từng
khu phố, ấp, phường xã, từng quận. Phân loại phải khách quan, tranh thủ sự đồng
tình của gia đình và quần chúng.
- Công an cùng với đoàn thể ở cơ
sở lập danh sách, một mặt báo cáo Ủy ban nhân dân phường, xã một mặt đề nghị
lên Công an và Ủy ban nhân dân cấp trên xét duyệt như trên đã nêu.
3- Củng cố các cơ sở tập trung
hiện có và nghiên cứu xây dựng theo cơ sở mới
- Sở Công an và Bộ Tư lệnh thành
phố hoàn thành xây dựng các trại đang xây cất và nghiên cứu xâydựng thêm cơ sở
mới đủ sức chứa 12.000 đối tượng loại 1 – 2 trong 2 năm.
- Sở Thương binh xã hội củng cố
các cơ sở đã có đồng thời nghiên cứu xây dựng thêm cơ sở mới trong 2 năm, đủ
sức thu nạp số tệ nạn xã hội cần tập trung theo kế hoạch (khoảng 20.000).
- Thành đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh củng cố và mở rộng Trường “Thanh niên xây dựng cuộc sống mới” hiện
có và nghiên cứu xây dựng thêm 1 cơ sở nữa đủ sức chứa 15.000 thanh niên phải
cưỡng bức lao động trong 2 năm (vô, ra). Đồng thời nghiên cứu tổ chức các đội
thanh niên lao động cưỡng bức làm viêc ở các công trường nông trường.
- Sở Y tế mở rộng trại cùi Bến
Sắn đủ sức thu nạp hết số cùi sống lang thang và số cùi ở gia đình nhưng đã
phát triển đến độ lây bệnh, dự kiến khoảng 2.000 trong 2 năm. Đồng thời tổ chức
ở nơi cơ sở cải tạo tập trung 1 trạm xá có đủ cán bộ chuyên môn và thuốc men
cần thiết cho công việc điều trị tại chỗ.
Các cơ sở cải tạo tập trung này
(trừ trại cùi và trại nuôi người già tàn tật) phấn đấu làm tốt 2 nhiệm vụ :
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, vừa là nơi cải tạo vừa là nơi sản xuất
ra của cải vật chất, vừa là nơi cải tạo những con người cũ vừa là nơi đào tạo
xây dựng những con người mới. Phấn đấu trong thời gian nhất định (từ 6 tháng
trở lên), các cơ sở này sản xuất ra của cải, giảm 1 phần chi phí cho Nhà nước.
Để đảm bảo các trường trại này
thực hiện tốt nhiệm vụ, mỗi trường trại cần có 1 lực lượng cán bộ công nhân
viên thích đáng, một số phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho sinh hoạt
học tập lao động sản xuất, trị bệnh.., gắn họ vào cuộc sống tập thể, taọ điều
kiện cho họ tiếp thu tốt sự cải tạo. Chúng ta hiện nay đang phải làm nhiều
việc, còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, vật tư hàng hóa, nhưng công tác hài
trừ tệ nạn xã hội xâydựng cuộc sống mới là công việc thể hiện chánh sách nhân
đạo, tình thương yêu của Đảng và Nhà nước ta đối với lớp người nạn nhân của xã
hội cũ, đấu tranh cải tạo và xây dựng họ trở thành những con người lao động mới
có ích cho xã hội. Vì vậy, các ngành theo trách nhiệm của mình dành những phần
cần thiết về cán bộ nhân viên, tài chánh, vật tư hàng hóa cho mặt công tác này
và thực hiện tốt các kế hoạch được phân công như : ngành Xây dựng lo việc xây
dựng cơ sở vật chất, ngành Công nông nghệp giải quyết các yêu cầu về cơ sở lao
động, học nghề, sản xuất ; ngành Tài chánh, Thương nghiêp, Y tế phục vụ kịp thời
các kế hoạch về tiền, hàng hóa vật tư, thuốc trị bệnh, v.v.. theo dự trù của
ngành chủ quản sau khi được Ủy ban nhân dân Thành phố duyệt y.
Riêng về nguồn cán bộ nhân viên
ở các trường trại, ngoài số cốt cán thuộc biên chế Nhà nước, có thể sử dụng thêm
một số cán bộ về hưu, số cán bộ cũ dứt liên lạc, số người làm việc của chế độ
cũ mà trước đây không có hoạt động chánh trị và không gây tội ác.. có nhiệt
tình đối với công việc này vừa sử dụng vửa cải tạo họ. Có thể sử dụng cả những
người đã cải tạo tiến bộ theo chế độ tạm tuyển, hợp đồng dài hạn. Cũng cần
nghiên cứu, có chánh sách riêng đối với số cán bộ nhân viên làm việc ở các
trường trại này như : phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực... Cán bộ nhân viên
ở trường trại phải là những người có nhiệt tình, có trách nhiệm và toàn bộ hoạt
động của trường trại phải thể hiện cho rõ quan điểm của Đảng là thương yêu họ
và tôn trọng con người họ. Có như vậy mới thuyết phục và cảm hóa được họ một
cách mạnh mẽ, mau chóng và sâu sắc.
Đối với số tập trung cải tạo, nghiên
cứu từng đợt (có thể 6 tháng) có xem xét phân loại cho ra trại số cải tạo tiến
bộ với điều kiện nhất thiết phải đưa họ vào lao động ở các cơ sở tập thể xa
thành phố. Có thể giúp đỡ gia đình họ đến cơ sở mới cùng họ lao động xây dựng
cuộc sống mới.
4.- Cùng với phong trào và dựa
hẳn vào phong trào bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng nếp sống mới, ngành Công an
và quân sự cần đẩy mạnh phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, làm tốt các mặt công
tác :
- Phát động tốt và thường xuyên
phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc.
- Đăng ký và quản lý hộ khẩu
- Thu gom và quản lý võ khí
- Tăng cường tuần tra canh gác
- Tổ chức và tăng cường sự phối
họp hoạt động của các tổ bảo vệ dân phố, du kích và dân quân tự vệ, dân phòng,
thanh niên cờ đỏ, thanh niên xung kích.
- Sưu tra và nắm chắc đối tượng
- Truy quét bọn lưu manh chuyên
nghiệp, bọn cầm đầu các băng cướp giựt kết hợp giữa thường xuyên và từng đợt.
- Ngăn chặn và khám phá kịp thời
các vụ án, phấn đấu trọng đạt án đạt 80%, thường án đạt 70%.
- Tập hợp xây dựng hồ sơ, phối
hợp với các cơ quan kiểm soát, Tòa án xử lý kịp thời các vụ án, nghiêm trị bọn
đầu sỏ.
Ngành công an phải dựa hẳn vào
phong trào, ngoài việc góp phần vào công việc giáo dục, quản lý đối tượng, cần
phát huy vai trò của cơ quan an ninh kịp thời trấn áp bọn ngoan cố trên diện
rộng và tập trung vào những trọng điểm.
5.- Tổ chức Ban chỉ đạo phong
trào và tiến hành chỉ đạo thí điểm :
a. Trước đây, thực hiện Chỉ thị
số 16 - 17 của Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố đã lập Ban chỉ đạo giữ gìn
trật tự xã hội. Nay căn cứ vào yêu cầu mới, đề nghị củng cố mở rộng thêm thành
phần của Ban chỉ đạo các cấp và ở mỗi cấp có một số cán bộ chuyên trách.
- Ở cấp Thành phố, đồng chí Mai
Chí Thọ, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân trực tiếp làm Trưởng Ban chỉ đạo và thành
phần Ban chỉ đạo gồm đại diện của các cơ quan : Thương binh xã hội, Công an, Bộ
Tư lệnh, Ủy ban Kế hoạch,Văn phòng Ủy ban, Y tế, Xây dựng, Vật tư, Lương thực,
Thương nghiệp, Ban Tuyên huấn, Thông tin văn hóa, Kinh tế mới, Tài chánh, Lao
động, Thể dục thể thao, Mặt trận, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ, Nông hội.
Ban chỉ đạo có một số Phó ban,
trong đó có 1 Phó Ban làm thường trực chuyên trách, hình thành một số bộ phận
và ngoài cán bộ biệt phái của các ngành, có một số cán bộ chuyên trách giúp
việc.
- Ở cấp quận, phường, xã cũng
với thành phần tương tự nhưng gọn hơn.
Ban chỉ đạo có sinh hoạt định kỳ
và đột xuất để tập hợp tình hình, đề ra kế hoạch chỉ đạo phong trào và thường
xuyên báo cáo, xin ý kiến Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố, Ban chỉ đạo cấp
trên có quan hệ chặt chẽ và thường xuyên chỉ đạo công tác các Ban chỉ đạo cấp
dưới.
b/ Ban chỉ đạo các cấp tổ chức
chỉ đạo thí điểm trong từng bước công tác để rút kinh nghiệm hướng dẫn công
tác.
Thành phố chỉ đạo thí điểm một
quận nội thành và một huyện ngoại thành.
Mỗi quận huyện chỉ đạo thí điểm
2 phường, xã.
c/ Bài trừ tệ nạn xã hội ở Thành
phố ta có quan hệ đến các tỉnh. Trong thành phần số tệ nạn xã hội và số tội
phạm hình sự có không ít người ở các tỉnh về khi ta làm mạnh ở thành phố bọn
tội phạm hình sự và tệ nạn xã hội chạy dạt về các tỉnh.
Vì vậy ta sẽ đề nghị Trung ương
có chỉ đạo tiến hành phong trào này trong tất cả các tỉnh ở miền Nam và Ban chỉ
đạo thành phố quan hệ, có kế hoạch phố hợp với các tỉnh lân cận.
6.- Tổ chức nghiên cứu chánh
sách và xây dựng các văn bản pháp quy, về bài trừ tệ nạn xã hội và công bộ công
khai trong quần chúng
Để có cơ sở pháp lý, Ban chỉ đạo
Thành phố cần tổ chức nghiên cứu, xây dựng một số văn bản pháp quy về bài trừ
tệ nạn xã hội và công bố công khai trong quần chúng :
- Chỉ thị của Ủy ban nhân dân về
bài trừ tệ nạn xã hội.
- Chánh sách và các biện pháp xử
lý đối với các loại tệ nạn xã hội như : loại nào cải tạo tại chỗ, loại nào cải
tạo bằng lao động ở công trường nông trường, loại nào tập trung cải tạo.
- Chế độ phụ cấp của Nhà nước
đối với từng loại về ăn, mặc, thuốc men.
- Chế độ phụ cấp đặc biệt cho
cán bộ nhân viên làm việc ở các trường cải tạo.
Trên đây mới nêu lên mục tiêu,
yêu cầu phươg châm và một số biện pháp tổ chức thực hiện, Ban chỉ đạo thành phố
có trách nhiệm nghiên cứu, có kế hoạch cụ thể, hướng dẫn các ngành, các cấp
thực hiện tốt chỉ thị này và thường xuyên báo cáo tình hình về Thành ủy và Ủy
ban nhân dân Thành phố.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Mai Chí Thọ
|