Luật Đất đai 2024

Công văn về việc giải quyết các vụ án ly hôn với một bên đương sự đang ở nước ngoài

Số hiệu 29/NCPL
Cơ quan ban hành Tòa án nhân dân tối cao
Ngày ban hành 06/04/1992
Ngày công báo Đã biết
Lĩnh vực Lĩnh vực khác
Loại văn bản Công văn
Người ký Trịnh Hồng Dương
Ngày có hiệu lực Đã biết
Số công báo Đã biết
Tình trạng Đã biết

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 29/NCPL

Hà Nội, ngày 06 tháng 4 năm 1992

CÔNG VĂN

CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 29/NCPL NGÀY 6 THÁNG 4 NĂM 1992 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LY HÔN VỚI MỘT BÊN ĐƯƠNG SỰ ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI

Kính gửi: Toà án nhân dân thành phố Hà Nội

Sau khi nghiên cứu Công văn số 42/DS-TA ngày 12-3-1992, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:

1. Đối với các trường hợp cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài (Đại sứ quán hoặc lãnh sự quán) được uỷ thác đã có giấy triệu tập dương sự để lấy lời khai, nhưng đương sự không đến để khai báo thì tuỳ trường hợp cụ thể mà giải quyết như sau:

- Nếu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài cho biết là đương sự đã nhận được giấy triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vẫn cố tình không đến để khai báo, cung cấp những tài liệu cần thiết, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

- Nếu đương sự không có địa chỉ rõ ràng sống lưu vong, không ai quản lý, cho nên cơ quan ngoại giao của nước ta không thể liên hệ với họ được, thì Toà án yêu cầu thân nhân của đương sự đang ở nước ngoài gửi cho họ lời khai của đương sự trong nước và báo cho đương sự đang ở nước ngoài gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu đương sự ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của đương sự đang ở nước ngoài. Cũng theo cách thức liên hệ này và đã liên hệ được với đương sự đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp đương sự không có thân nhân ở trong nước, cũng như trong trường hợp không liên hệ được (không biết bị đơn đang ở đâu), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Đối với trường hợp này Toà án cần giải thích cho đương sự đang ở trong nước (nguyên đơn) biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích như đã hướng dẫn tại Nghị quyết số 3-HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

2. Đối với các trường hợp cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài đã lấy được lời khai của đương sự, nhưng sau khi xét xử sơ thẩm thì việc giao bản sao bản án cho họ không thực hiện được vì họ không còn ở nơi ở cũ thì Toà án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó. Trong thời hạn ba tháng kể từ ngày Toà án gửi Công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài về việc đã niêm yết bản sao bản án, nhưng không có đơn, thư của đương sự đang ở nước ngoài về việc đương sự đang ở nước ngoài có kháng cáo, đồng thời trong thời gian kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì Toà án có quyền đưa bản án ra thi hành.

Trịnh Hồng Dương

(Đã ký)

31
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tiện ích dành riêng cho tài khoản TVPL Basic và TVPL Pro
Tải về Công văn về việc giải quyết các vụ án ly hôn với một bên đương sự đang ở nước ngoài
Tải văn bản gốc Công văn về việc giải quyết các vụ án ly hôn với một bên đương sự đang ở nước ngoài
Chưa có văn bản song ngữ
Văn bản được hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản được hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản bị sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản bị đính chính - [0]
[...]
Văn bản bị thay thế - [0]
[...]
Văn bản được dẫn chiếu - [0]
[...]
Văn bản được căn cứ - [0]
[...]
Văn bản liên quan ngôn ngữ - [1]
[...]
Văn bản đang xem
Công văn về việc giải quyết các vụ án ly hôn với một bên đương sự đang ở nước ngoài
Số hiệu: 29/NCPL
Loại văn bản: Công văn
Lĩnh vực, ngành: Lĩnh vực khác
Nơi ban hành: Tòa án nhân dân tối cao
Người ký: Trịnh Hồng Dương
Ngày ban hành: 06/04/1992
Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày đăng: Đã biết
Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết
Văn bản liên quan cùng nội dung - [0]
[...]
Văn bản hướng dẫn - [0]
[...]
Văn bản hợp nhất - [0]
[...]
Văn bản sửa đổi bổ sung - [0]
[...]
Văn bản đính chính - [0]
[...]
Văn bản thay thế - [0]
[...]
[...] Đăng nhập tài khoản TVPL Basic hoặc TVPL Pro để xem toàn bộ lược đồ văn bản
Thủ tục giải quyết ly hôn có một bên đương sự đang ở nước ngoài được hướng dẫn bởi Công văn 517/NCPL năm 1993 có hiệu lực từ ngày 09/10/1993
Trong thời gian vừa qua Toà án nhân dân tối cao nhận được công văn của một số Toà án nhân dân địa phương hỏi một số vấn đề về thủ tục giải quyết việc ly hôn có một bên đương sự đang ở nước ngoài. Toà án nhân dân tối cao đã trao đổi với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và tại công văn ngày 5-10-1993 Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thống nhất với Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thêm như sau, ngoài các hướng dẫn trước đây tại các công văn số 130/NCPL ngày 16-12-1991 và số 29/NCPL ngày 6-4-1992 của Toà án nhân dân tối cao:

1. Trong trường hợp Toà án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục uỷ thác tư pháp đến lần thứ hai, nhưng không được các cơ quan tư pháp có trách nhiệm của nước liên quan đáp ứng, thì Toà án liên hệ với Bộ Tư pháp để thông qua Bộ Ngoại giao yêu cầu cơ quan lãnh sự của nước ta tại nước có liên quan thực hiện uỷ thác tư pháp theo quy định tại Điều 30 Pháp lệnh lãnh sự công bố ngày 24-11-1990 với nội dung: Lãnh sự thực hiện uỷ thác tư pháp của cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền đối với công dân Việt Nam ở khu vực lãnh sự, nếu việc đó không trái với pháp luật nước tiếp nhận hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước tiếp nhận ký kết hoặc tham gia.

Việc thực hiện uỷ thác tư pháp này phải tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng Việt Nam. Nếu Toà án đã thực hiện theo đúng các hướng dẫn nói trên nhưng việc uỷ thác tư pháp vẫn không có kết quả do bị đơn không có địa chỉ rõ ràng, sống lưu vong, không ai quản lý, thì Toà án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc các tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời khai và tài liệu đó để xét xử, nếu nguyên đơn ở trong nước công nhận những lời khai hoặc tài liệu gửi về đúng là của bị đơn đang ở nước ngoài. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên và đã liên hệ được với bị đơn đang ở nước ngoài, nhưng họ cố tình từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết đến lần thứ hai, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Nếu theo cách thức liên hệ nói trên, nhưng không liên hệ được thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.

2. Đối với những vụ án ly hôn, nguyên đơn là người ở trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, bị đơn là người đang ở nước ngoài, nhưng có đầy đủ căn cứ chứng minh là họ vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để bị đơn gửi lời khai về cho Toà án, thì cần coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Trong trường hợp này, nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án có thể đưa vụ án ra xét xử. Ngược lại, nếu không có đầy đủ căn cứ để chứng minh được là bị đơn vẫn gọi điện về cho thân nhân của họ ở trong nước và thân nhân của họ không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án huyện nơi họ thường trú xác định bị đơn mất tích hoặc đã chết theo thủ tục quy định về việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết.

3. Đối tượng các trường hợp sau khi xét xử sơ thẩm vẫn không có hoặc không biết địa chỉ của bị đơn để tống đạt bản án và thân nhân của họ ở trong nước cũng từ chối việc thông báo cho họ kết quả xét xử của Toà án, thì Toà án gửi công văn cho cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài kèm theo bản sao bản án và yêu cầu niêm yết bản sao bản án tại trụ sở của cơ quan ngoại giao đó; đồng thời Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước một bản sao bản án và yêu cầu họ gửi cho bị đơn đang ở nước ngoài. Trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày Toà án gửi công văn và bản sao bản án yêu cầu cơ quan ngoại giao của nước ta ở nước ngoài niêm yết bản sao bản án và kể từ ngày Toà án cấp cho thân nhân của họ ở trong nước bản sao bản án, dù Toà án có nhận được hay không nhận được thông báo của cơ quan ngoại giao nước ta ở nước ngoài cũng như thông báo của thân nhân của họ ở trong nước về việc đã niêm yết bản sao bản án, đã gửi bản sao bản án cho họ hay chưa mà không có đơn, thư của bị đơn đang ở nước ngoài về việc họ có kháng cáo, đồng thời trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị được quy định tại Điều 59 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, bản án cũng không bị những người khác kháng cáo hoặc Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị, thì bản án được thi hành theo thủ tục chung.

Xem nội dung VB
CÔNG VĂN CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 29/NCPL NGÀY 6 THÁNG 4 NĂM 1992 VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN LY HÔN VỚI MỘT BÊN ĐƯƠNG SỰ ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI
Thủ tục giải quyết ly hôn có một bên đương sự đang ở nước ngoài được hướng dẫn bởi Công văn 517/NCPL năm 1993 có hiệu lực từ ngày 09/10/1993