Một trong những hạn chế của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay là?

Một trong những hạn chế của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay là? Lịch sử là môn học thuộc nhóm Khoa học xã hội gồm mấy phần?

Nội dung chính

    Một trong những hạn chế của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay là?

    Từ năm 1986, Việt Nam thực hiện công cuộc Đổi mới với mục tiêu phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân và hội nhập quốc tế. Sau gần bốn thập kỷ, Đổi mới đã mang lại những thành tựu to lớn, giúp Việt Nam thoát khỏi tình trạng đói nghèo, trở thành nền kinh tế đang phát triển năng động. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công cuộc Đổi mới cũng bộc lộ một số hạn chế, trong đó, một vấn đề đáng chú ý là tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững.

    Trước hết, mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong nhiều năm qua chủ yếu dựa vào vốn đầu tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ, thay vì tập trung vào đổi mới sáng tạo và ứng dụng khoa học công nghệ cao. Hệ số ICOR (tỷ lệ vốn đầu tư trên sản lượng) của Việt Nam vẫn ở mức cao, cho thấy hiệu quả đầu tư chưa thực sự tối ưu. Việc phát triển dựa trên mở rộng đầu tư và khai thác tài nguyên không phải là giải pháp lâu dài, bởi tài nguyên thiên nhiên có hạn và mô hình này không tạo ra nền tảng vững chắc để cạnh tranh với các quốc gia phát triển hơn.

    Thứ hai, năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với nhiều nước trong khu vực. Theo các báo cáo kinh tế, năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn đáng kể so với Singapore, Malaysia, Thái Lan, và Indonesia. Sự chậm cải tiến công nghệ và thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao đã khiến năng suất lao động tăng chậm, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế.

    Bên cạnh đó, chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội cũng là một hệ quả của tăng trưởng thiếu bền vững. Trong khi nền kinh tế phát triển, khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư ngày càng lớn, đặc biệt là giữa khu vực thành thị và nông thôn. Nhiều vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là nơi sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số, chưa được hưởng lợi đầy đủ từ thành quả phát triển. Điều này không chỉ tạo ra bất ổn xã hội mà còn làm giảm động lực tăng trưởng trong dài hạn.

    Ngoài ra, vấn đề ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên cũng là những dấu hiệu rõ ràng của sự thiếu bền vững trong phát triển kinh tế. Việc mở rộng công nghiệp, khai thác khoáng sản và phát triển đô thị nhanh chóng đã dẫn đến suy thoái môi trường nghiêm trọng. Ô nhiễm không khí, nguồn nước, đất đai ngày càng trở thành mối lo ngại lớn, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân và gây thiệt hại kinh tế trong dài hạn. Nếu không có các biện pháp kiểm soát hiệu quả, Việt Nam có thể phải trả giá đắt cho việc đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng.

    Hơn nữa, hệ thống chính sách chưa thực sự tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững. Cải cách thể chế kinh tế và hành chính còn chậm, chưa tạo ra môi trường minh bạch và thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển theo hướng đổi mới sáng tạo. Trong khi đó, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ cao, chưa phát huy hiệu quả mạnh mẽ, khiến nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư nước ngoài (FDI), thay vì thúc đẩy năng lực tự cường.

    Để khắc phục hạn chế này, Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp quan trọng. Trước hết, cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giảm phụ thuộc vào tài nguyên và lao động giá rẻ, thay vào đó tập trung vào phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao năng suất lao động. Đồng thời, cần đẩy mạnh cải cách thể chế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân phát triển và tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Ngoài ra, Việt Nam cần chú trọng bảo vệ môi trường song song với phát triển kinh tế, hướng đến mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong dài hạn.

    Như vậy, một trong những hạn chế của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay là tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững.

    (Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo)

    Một trong những hạn chế của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay là?

    Một trong những hạn chế của công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay là? (Ảnh từ Internet)

    Lịch sử là môn học thuộc nhóm Khoa học xã hội gồm mấy phần?

    Căn cứ Mục I Chương trình giáo dục phổ thông 2018 môn Lịch sử được ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT, được sửa đổi bởi Điều 2 Thông tư 13/2022/TT-BGDĐT như sau:

    ĐẶC ĐIỂM MÔN HỌC
    Lịch sử là môn học thuộc nhóm Khoa học xã hội, gồm 2 phần: phần bắt buộc đối với tất cả học sinh và phần lựa chọn cho học sinh chọn môn Lịch sử theo định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông.
    Môn Lịch sử có sứ mệnh giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực lịch sử, thành phần của năng lực khoa học đồng thời góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được xác định trong Chương trình tổng thể. Môn Lịch sử giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, giúp học sinh nhận thức và vận dụng được các bài học lịch sử giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống, phát triển tầm nhìn, củng cố các giá trị nhân văn, tinh thần cộng đồng, lòng khoan dung, nhân ái; góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại.
    Môn Lịch sử hình thành, phát triển cho học sinh tư duy lịch sử, tư duy hệ thống, tư duy phản biện, kĩ năng khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu, nhận thức và trình bày lịch sử trong logic lịch đại và đồng đại, kết nối quá khứ với hiện tại.
    Môn Lịch sử giúp học sinh nhận thức được giá trị khoa học và giá trị thực tiễn của sử học trong đời sống xã hội hiện đại, hiểu biết và có tình yêu đối với lịch sử, văn hóa dân tộc và nhân loại; góp phần định hướng cho học sinh lựa chọn những nghề nghiệp như: nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, ngoại giao, quản lí, hoạt động du lịch, công nghiệp văn hóa, thông tin truyền thông,...
    Chương trình môn Lịch sử hệ thống hóa, củng cố kiến thức thông sử ở giai đoạn giáo dục cơ bản, đồng thời giúp học sinh tìm hiểu sâu hơn các kiến thức lịch sử cốt lõi thông qua các chủ đề, chuyên đề học tập về lịch sử thế giới, lịch sử khu vực Đông Nam Á và lịch sử Việt Nam. Phương pháp dạy học môn Lịch sử được thực hiện trên nền tảng những nguyên tắc cơ bản của sử học và phương pháp giáo dục hiện đại.

    Theo đó, Lịch sử là môn học thuộc nhóm Khoa học xã hội, gồm 2 phần: phần bắt buộc đối với tất cả học sinh và phần lựa chọn cho học sinh chọn môn Lịch sử theo định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông.

    Chuyên viên pháp lý Trần Thị Mộng Nhi
    saved-content
    unsaved-content
    178