Việc yêu cầu đặt cọc tiền học đào tạo nghề khi ký hợp đồng lao động có vi phạm pháp luật không?
Nội dung chính
Việc yêu cầu đặt cọc tiền học đào tạo nghề khi ký hợp đồng lao động có vi phạm pháp luật không?
Căn cứ tại Điều 17 Bộ Luật lao động 2019 quy định về các hành vi người sử dụng lao động không được làm:
Hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động
1. Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động.
2. Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.
3. Buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động.
Theo đó, người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động. Nên việc yêu cầu người lao động đặt cọc tiền học nghề là trái với quy định.
Đồng thời theo khoản 3 Điều 61 Bộ luật Lao động 2019 quy định về việc học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động như sau:
Học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động
….
3. Người sử dụng lao động tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm việc cho mình thì không phải đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp; không được thu học phí; phải ký hợp đồng đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp.
4. Người học nghề, người tập nghề phải đủ 14 tuổi trở lên và phải có đủ sức khỏe phù hợp với yêu cầu học nghề, tập nghề. Người học nghề, người tập nghề thuộc danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành phải từ đủ 18 tuổi trở lên, trừ lĩnh vực nghệ thuật, thể dục, thể thao.
5. Trong thời gian học nghề, tập nghề, nếu người học nghề, người tập nghề trực tiếp hoặc tham gia lao động thì được người sử dụng lao động trả lương theo mức do hai bên thỏa thuận.
6. Hết thời hạn học nghề, tập nghề, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động khi đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật này.
Như vậy, theo các quy định trên người sử dụng lao động tuyển người lao động vào để học nghề, tập nghề để họ làm việc cho mình thì không được thu học phí. Việc người sử dụng lao động yêu cầu đặt cọc tiền học đào tạo nghề khi ký hợp đồng lao động là vi phạm pháp luật.
Việc yêu cầu đặt cọc tiền học đào tạo nghề trước khi nhận vào làm có vi phạm pháp luật không? (Hình từ Internet)
Người sử dụng lao động thu tiền học đào tạo nghề của người lao động thì sẽ bị xử phạt như thế nào?
Tại khoản 1 Điều 14 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định về vấn đề này như sau:
Vi phạm quy định về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề
1. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: không đào tạo cho người lao động trước khi chuyển người lao động sang làm nghề khác cho mình; hợp đồng đào tạo nghề không có các nội dung chủ yếu theo quy định tại khoản 2 Điều 62 của Bộ luật Lao động; thu học phí của người học nghề, tập nghề để làm việc cho mình; không ký hợp đồng đào tạo với người học nghề, tập nghề để làm việc cho mình đối với trường hợp người sử dụng lao động không phải đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 61 của Bộ luật Lao động; không trả lương cho người học nghề, tập nghề trong thời gian họ học nghề, tập nghề mà trực tiếp hoặc tham gia lao động; không ký kết hợp đồng lao động đối với người học nghề, người tập nghề khi hết thời hạn học nghề, tập nghề và đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Lao động theo một trong các mức sau đây:
a) Từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;
b) Từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;
c) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;
d) Từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;
đ) Từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.
Theo đó, nếu như người sử dụng lao động thu tiền học đào tạo nghề của người học nghề, tập nghề để làm việc cho chính mình thì có thể sẽ bị xử phạt hành chính từ 500.000 đến 20.000.000 đồng. Mức xử phạt cụ thể sẽ tùy thuộc vào số lượng người lao động mà công ty vi phạm.
Ngoài ra, theo điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị định 12/2022/NĐ-CP thì người sử dụng lao động còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là phải trả lại học phí đã thu của người học nghề để làm việc cho mình khi vi phạm.
Lưu ý: theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, mức phạt quy định trên đây là mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động về đào tạo được quy định như thế nào?
Căn cứ tại Điều 60 Bộ luật lao động 2019 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề như sau:
- Người sử dụng lao động xây dựng kế hoạch hằng năm và dành kinh phí cho việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, phát triển kỹ năng nghề cho người lao động đang làm việc cho mình; đào tạo cho người lao động trước khi chuyển làm nghề khác cho mình.
- Hằng năm, người sử dụng lao động thông báo kết quả đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh