08:12 - 21/02/2025

Lễ hội Cầu ngư – Nét văn hóa đặc sắc của ngư dân miền biển

Thời gian, địa điểm tổ chức và các nghi thức trong lễ hội Cầu ngư. Quy định về đăng ký tổ chức lễ hội như thế nào?

Nội dung chính

    Thời gian diễn ra lễ hội Cầu ngư

    Lễ hội Cầu ngư là một trong những lễ hội truyền thống quan trọng của ngư dân vùng biển Việt Nam. Lễ hội thường diễn ra vào đầu năm, chủ yếu vào tháng Giêng hoặc tháng Hai âm lịch, tùy theo từng địa phương. Đây là thời điểm ngư dân chuẩn bị bước vào một mùa đánh bắt mới, nên việc tổ chức lễ hội mang ý nghĩa cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy thuyền, tránh được thiên tai và tai ương trên biển.

    Tại mỗi địa phương, thời gian tổ chức có thể khác nhau. Chẳng hạn, ở các tỉnh miền Trung như Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định, lễ hội thường diễn ra vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch. Trong khi đó, một số địa phương khác có thể tổ chức vào ngày rằm tháng Giêng hoặc cuối tháng Hai âm lịch. Dù tổ chức vào thời điểm nào, lễ hội vẫn luôn thu hút đông đảo ngư dân và du khách tham gia.

    Lễ hội không chỉ mang ý nghĩa cầu nguyện mà còn là dịp để người dân bày tỏ lòng biết ơn đối với thần Nam Hải – vị thần bảo trợ cho những chuyến đi biển. Với tín ngưỡng của ngư dân, cá Ông (cá voi) là loài vật linh thiêng, thường giúp đỡ tàu thuyền khi gặp bão tố. Chính vì vậy, lễ hội Cầu ngư còn được xem là một truyền thống thiêng liêng, gắn liền với đời sống tinh thần của cộng đồng ngư dân.

    Lễ hội Cầu ngư – Nét văn hóa đặc sắc của ngư dân miền biển

    Lễ hội Cầu ngư – Nét văn hóa đặc sắc của ngư dân miền biển (HÌnh từ Internet)

    Địa điểm tổ chức và các nghi thức trong lễ hội Cầu ngư

    Lễ hội Cầu ngư chủ yếu được tổ chức tại các làng chài ven biển từ miền Trung đến miền Nam, nơi có truyền thống đánh bắt hải sản lâu đời. Những địa phương nổi bật với lễ hội này bao gồm Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bình Thuận, Khánh Hòa, Ninh Thuận, và Bà Rịa - Vũng Tàu. Ở mỗi nơi, lễ hội có thể mang những nét đặc trưng riêng nhưng vẫn giữ nguyên tinh thần chung là thể hiện lòng thành kính đối với thần Nam Hải (cá Ông), vị thần bảo hộ ngư dân trên biển.

    Lễ hội thường được tổ chức tại lăng Ông Nam Hải, nơi thờ cúng cá Ông. Phần lễ bao gồm các nghi thức rước thần, dâng hương, cúng bái và đọc sớ cầu an. Đặc biệt, lễ rước thần Nam Hải là một trong những nghi thức quan trọng nhất. Ngư dân sẽ trang hoàng thuyền bè rực rỡ, rước kiệu thần từ lăng Ông ra biển, cầu mong sự phù hộ cho những chuyến đi biển an toàn và bội thu.

    Ngoài nghi lễ trang trọng, phần hội cũng không kém phần đặc sắc. Đây là dịp để người dân vui chơi, giải trí và thể hiện tinh thần đoàn kết. Các trò chơi dân gian như đua thuyền, kéo co, đi cà kheo, đấu vật thu hút sự tham gia đông đảo của cả ngư dân và du khách. Đặc biệt, hát bội và múa lân là hai hoạt động không thể thiếu, mang đến không khí náo nhiệt và đậm đà bản sắc văn hóa biển.

    Bên cạnh đó, nhiều địa phương còn tổ chức các hội thi gắn liền với nghề biển như thi chế biến hải sản, thi đánh bắt cá, thi làm lưới. Những cuộc thi này không chỉ là sân chơi cho ngư dân thể hiện tay nghề mà còn là cơ hội để truyền lại kinh nghiệm quý báu cho thế hệ trẻ. Qua đó, lễ hội không chỉ có ý nghĩa tâm linh mà còn góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.

    Lễ hội Cầu ngư ngày nay không chỉ là một sự kiện tín ngưỡng mà còn trở thành điểm nhấn du lịch quan trọng. Nhiều địa phương đã kết hợp lễ hội với các chương trình du lịch trải nghiệm, giúp du khách hiểu rõ hơn về đời sống và tín ngưỡng của ngư dân. Những ai tham gia lễ hội không chỉ được hòa mình vào không gian văn hóa đặc sắc mà còn có cơ hội khám phá ẩm thực biển với các món hải sản tươi ngon.

    Nhìn chung, lễ hội Cầu ngư không chỉ là một nghi lễ cầu bình an mà còn là một dịp để cộng đồng ngư dân thể hiện niềm tin và lòng biết ơn đối với biển cả. Với sự phát triển của du lịch và sự quan tâm của chính quyền địa phương, lễ hội ngày càng được tổ chức quy mô hơn, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa dân gian của người dân miền biển.

    Quy định về đăng ký tổ chức lễ hội như thế nào?

    Tại Điều 9 Nghị định 110/2018/NĐ-CP quy định về việc đăng ký tổ chức lễ hội như sau:

    (1) Lễ hội phải đăng ký với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước khi tổ chức gồm:

    - Lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề do cơ quan trung ương tổ chức (sau đây gọi là lễ hội cấp quốc gia) được tổ chức lần đầu.

    - Lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề có từ 02 tỉnh trở lên tham gia tổ chức (sau đây gọi là lễ hội cấp khu vực) được tổ chức lần đầu.

    - Lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài được tổ chức lần đầu hoặc khôi phục sau thời gian gián đoạn từ 02 năm trở lên.

    (2) Lễ hội phải đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trước khi tổ chức gồm:

    - Lễ hội truyền thống, lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề cấp tỉnh được tổ chức lần đầu hoặc khôi phục sau thời gian gián đoạn từ 02 năm trở lên;

    - Lễ hội truyền thống, lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề có nhiều huyện thuộc một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tham gia tổ chức (sau đây gọi là lễ hội cấp tỉnh) được tổ chức lần đầu hoặc khôi phục sau thời gian gián đoạn từ 02 năm trở lên.

    (3) Lễ hội phải đăng ký với Ủy ban nhân dân cấp huyện trước khi tổ chức gồm:

    - Lễ hội truyền thống, lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề cấp huyện được tổ chức lần đầu hoặc khôi phục sau thời gian gián đoạn 02 năm trở lên.

    - Lễ hội truyền thống, lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề có nhiều xã thuộc một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương tham gia tổ chức (sau đây gọi là lễ hội cấp huyện) được tổ chức lần đầu hoặc khôi phục sau thời gian gián đoạn từ 02 năm trở lên.

    - Lễ hội truyền thống, lễ hội văn hóa, lễ hội ngành nghề cấp xã được tổ chức lần đầu hoặc khôi phục sau thời gian gián đoạn 02 năm trở lên.

    - Lễ hội truyền thống cấp huyện, cấp xã được tổ chức hàng năm nhưng có thay đổi về cách thức tổ chức, nội dung, địa điểm so với truyền thống.

    saved-content
    unsaved-content
    113